Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 103/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 103/2022/DS-PT NGÀY 25/02/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 25 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 438/2021/TLPT-DS ngày 13 tháng 9 năm 2021 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.Do bản án dân sự sơ thẩm số: 06/2021/DS-ST ngày 25 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2612/2021/QĐ-PT ngày 30 tháng 11 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm 1970 (có mặt) Địa chỉ: Thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông

- Bị đơn: Bà Đỗ Thị M, sinh năm 1966 (xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đinh Văn V, sinh năm 1960 (xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1971 Địa chỉ: Thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn T, sinh năm 1970 (có mặt). Địa chỉ: Thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông

2/Ông Đinh Văn V, sinh năm 1960 (xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông

3/Ông Trần Đình P, sinh năm 1966 (xin xét xử vắng mặt) Bà Đỗ Thị T1, sinh năm 1975 (xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Thôn X6, xã Đ1, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông

- Người kháng cáo: Bị đơn bà Đỗ Thị M.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Trần Văn T trình bày:

Tháng 3 năm 2004 ông T và bà Hà Thị Kim C1 mỗi người trúng đấu giá quyền sử dụng đất 01 thửa đất có diện tích 6m x 60 m, do Đội Thi hành án huyện Đ tổ chức đấu giá đất của ông Hồ Ngọc M1, để thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Khi tiến hành đo đạc và bàn giao đất Đội Thi hành án huyện Đ đã xác định ranh giới đất giữa ông M1 và ông Dương (hộ liền kề) làm mốc giới. Ngày 22/7/2004 ông T được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN QSDĐ) số AA 023831, diện tích đất là 360m2, thuộc thửa đất số 550, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại thôn X6, xã Đ1, huyện Đ. Năm 2008, ông T cho rằng ông M1 là người lấn đất của mình nên ông T đã khởi kiện vụ án dân sự về việc tranh chấp quyền sử dụng đất với ông M1. Tuy nhiên, căn cứ bản án số 31/2018/DS-PT ngày 15/6/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông; biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 16/02/2017 và biên bản thỏa thuận ngày 08/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đăk Nông, ông T xác định người lấn chiếm đất của mình là bà M nên khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà M trả lại cho ông T diện tích đất đã lấn chiếm khoảng 10,2m2, chiều dài 17m tính từ lộ giới vào, chiều rộng gần 0,6m.

Quá trình tố tụng giải quyết vụ án, ông Đinh Văn V (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn) trình bày:

Ông V không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn, vì gia đình ông nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ bà Hà Thị Kim C1, ông Nguyễn Văn H2. Từ khi nhận chuyển nhượng đến nay gia đình vẫn sử dụng đúng ranh giới, không lấn chiếm đất của ông T. Việc tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông T và bà C1 đã được giải quyết xong tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 12/2008/QĐDS-ST ngày 27/3/2008 của Tòa án nhân dân huyện Đ và kết quả thi hành án xong ngày 12/5/2015. Sau khi thi hành án xong, bà C1 xây lại tường rào, công trình dân sinh và chuyển nhượng lại cho bà M năm 2016. Ông V đề nghị Tòa án bác đơn khởi kiện của ông T.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H (vợ ông T) thống nhất ý kiến với ông T, không có ý kiến khác. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Đình P và bà Đỗ Thị T1 là người mượn đất của bà M làm nhà đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật và có đơn xin xét xử vắng mặt.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 06/2021/DS-ST ngày 25 tháng 6 năm 2021của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông đã quyết định như sau:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Văn T, buộc bị đơn bà Đỗ Thị M phải trả lại diện tích đất lấn chiếm cho ông Trần Văn T là 10,8m2, có tứ cận như sau: Phía Đông giáp thửa đất của bà Đỗ Thị M (cạnh dài 39,09m); phía Tây giáp đất của ông Trần Văn T thực tế đang sử dụng (cạnh dài 39,16m); phía Nam giáp Quốc lộ 14 (cạnh dài 0,4m); phía Bắc giáp đất còn lại (cạnh dài 0,16m) – Có sơ đồ đo đạc cụ thể kèm theo.

2. Buộc ông Trần Đình P và bà Đỗ Thị T1 (những người tạo lập tài sản) phải tháo dỡ, di dời tài sản của mình trên phần diện tích đất 10,8m2 nêu trên để trả lại phần đất này cho ông Trần Văn T.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 21/7/2021 bị đơn bà Đỗ Thị M kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không đồng ý yêu cầu kháng cáo. Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan xin xét xử vắng mặt. Trong phần tranh luận, nguyên đơn giữ nguyên lời trình bày đã nêu trong quá trình giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nêu quan điểm giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã tiến hành đúng theo quy định của luật tố tụng hiện hành, không làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

Xét về nội dung vụ án, bản án sơ thẩm buộc bị đơn trả lại đất cho ông T là có căn cứ. Đối với tài sản trên đất do bị đơn lấn chiếm bất hợp pháp nên bản án sơ thẩm buộc ông P, bà T1 tự tháo dỡ để trả đất cho ông T là có căn cứ. Từ đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự trên.

[2] Ngày 22/7/2004 ông T được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 023831, diện tích đất là 360m2, thuộc thửa đất số 550, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại thôn X6, xã Đ1, huyện Đ. Nguồn gốc phần đất trên la ông T trúng đấu giá do Đội Thi hành án huyện Đ tổ chức đấu giá đất của ông Hồ Ngọc M1, để thi hành án. Ông T cho rằng bị đơn bà Đỗ Thị M đã lấn chiếm diện tích khoảng 10,2m2, chiều dài 17m, chiều rộng gần 0,6m nên khởi kiện yêu cầu bà M trả lại diện tích đất trên.

[3] Bị đơn bà Đỗ Thị M (có ông Đinh Văn V đại diện theo ủy quyền) trình bày: Phần đất của bị đơn là nhận chuyển nhượng từ bà Hà Thị Kim C1 vào năm 2016. Việc tranh chấp đất đai giữa ông T với bà C1 đã được Tòa án giải quyết vào năm 2008 và đã thi hành án xong. Sau đó, bà C1 đã xây dựng tường rào và chuyển nhượng lại cho bà M. Gia đình bà M đã sử dụng phần đất đúng ranh giới, không lấn chiếm nên không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[4] Bản án sơ thẩm nhận định:

[4.1]Theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số:

12/2008/QĐDS-ST ngày 27/3/2008 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đăk Nông thì thửa đất số 551 mà bà C1 được quyền sử dụng có chiều rộng dọc theo Quốc lộ 14 là 06m, sau đó bà C1 chuyển nhượng lại cho bà M. Căn cứ kết quả đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ ngày 29/01/2021 thì chiều rộng lô đất bà M đang sử dụng dọc theo Quốc lộ 14 là 6,48m. Như vậy chiều rộng phần đất mà bà M đang sử dụng nhiều hơn chiều rộng phần đất mà Cúc được quyền sử dụng là 0,48m.

[4.2] Mặt khác, tại bản án dân sự phúc thẩm số 31/2018/DS-PT ngày 15/6/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông đã nhận định “...phần diện tích đất của ông T bị thiếu so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp tại thửa đất số 550, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại thôn X6, xã Đ1 nằm trong diện tích đất bà M sử dụng; Một phần diện tích đất của bà M bị thiếu so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp tại thửa đất số 551, tờ bản đồ số 08 nằm trong phần diện tích đất ông Lê Văn T4 đang sử dụng không có căn cứ pháp luật. Do đó, ông T có quyền yêu cầu bà M giao ranh giới thửa đất 550, tờ bản đồ số 08 đúng diện tích đất trên thực địa, đồng thời bà M có quyền yêu cầu ông T4 giao phần diện tích đất sử dụng không có căn cứ pháp luật nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp đối với thửa đất số 551, tờ bản đồ số 08...” Do đó, ông T yêu cầu bà M phải trả cho ông T diện tích đất 10,2m2 (đo đạc thực tế là 10,8m2) đã lấn chiếm là có căn cứ chấp nhận.

[4.3] Đối với tài sản trên diện tích đất tranh chấp, do xác định bà Đỗ Thị M lấn chiếm bất hợp pháp nên buộc ông Trần Đình P và bà Đỗ Thị T1 (những người tạo lập tài sản) phải tháo dỡ, di dời tài sản của mình để trả lại phần đất này cho ông Trần Văn T.

Từ những nhận định trên, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[5] Nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm: Tòa án cấp sơ thẩm đã thu thập đầy đủ các chứng cứ có liên quan và đã căn cứ vào các chứng cứ thu thập trong quá trình giải quyết vụ án để nhận định, đánh giá, từ đó đưa ra phán quyết là có căn cứ và phù hợp với quy định pháp luật. Bị đơn kháng cáo nhưng tại phiên tòa phúc thẩm cũng không đưa ra được chứng cứ mới so với cấp sơ thẩm để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không có cơ sở chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm như ý kiến đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa. Tuy nhiên, tại mục 3 phần quyết định của bản án sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên về nghĩa vụ chịu lãi khi chậm thi hành án đối với chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và đo đạc là không đúng quy định tại Điều 158 Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm điều chỉnh nội dung này trong phần quyết định.

[6] Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bà Đỗ Thị M phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

I/Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Đỗ Thị M; Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 06/2021/DS-ST ngày 25/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông;

Căn cứ Điều 166 Bộ luật dân sự; Điều 166; Điều 203 Luật đất đai năm 2013; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Văn T, buộc bị đơn bà Đỗ Thị M phải trả lại diện tích đất lấn chiếm cho ông Trần Văn T là 10,8m2, có tứ cận như sau: Phía Đông giáp thửa đất của bà Đỗ Thị M (cạnh dài 39,09m); phía Tây giáp đất của ông Trần Văn T thực tế đang sử dụng (cạnh dài 39,16m); phía Nam giáp Quốc lộ 14 (cạnh dài 0,4m); phía Bắc giáp đất còn lại (cạnh dài 0,16m) – Có sơ đồ đo đạc cụ thể kèm theo.

2. Buộc ông Trần Đình P và bà Đỗ Thị T1 (những người tạo lập tài sản) phải tháo dỡ, di dời tài sản của mình trên phần diện tích đất 10,8m2 nêu trên để trả lại phần đất này cho ông Trần Văn T.

3. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và đo đạc: Buộc bị đơn bà Đỗ Thị M phải chịu số tiền 11.992.000 đồng (mười một triệu chín trăm chín mươi hai ngàn đồng) là tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và đo đạc. Do ông Trần Văn T đã nộp tạm ứng số tiền này nên buộc bà Đỗ Thị M phải trả lại cho ông Trần Văn T số tiền 11.992.000 đồng (mười một triệu chín trăm chín mươi hai ngàn đồng) này.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Buộc bà Đỗ Thị M phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

- Trả lại cho ông Trần Văn T số tiền đã nộp tạm ứng án phí là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai số 0001743 ngày 06/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Đăk Nông.

II/Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Đỗ Thị M phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005967 ngày 02/8/2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Đắk Nông.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 103/2022/DS-PT

Số hiệu:103/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về