Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 10/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH Đ

BẢN ÁN 10/2024/DS-PT NGÀY 16/01/2024 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 16 tháng 01 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 243/2023/TLPT-DS ngày 26 tháng 10 năm 2023, về việc “Tranh chấp Quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 109/2023/DS-ST ngày 21/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Đ bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 420/2023/QĐ-PT ngày 01 tháng 12 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 456/2023/QĐ-PT ngày 18/12/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2024/QĐ-PT ngày 09/01/2024 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Xuân H, sinh năm 1978; Cư trú: Tổ dân phố Đông Anh 2, Thị trấn Nam Ban, huyện H, tỉnh Đ.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Triếc T, sinh năm 1992; Cư trú tại: Số 671 H V, Thị trấn V, huyện H, tỉnh Đ. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H1, sinh năm 1977; Cư trú tại: Thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ. Có mặt

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1 Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1980; Cư trú tại: Thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ. Có mặt

3.2 Ông Chử Ngọc H, sinh năm 1987; Cư trú tại: Tổ dân phố Đông Anh 2, Thị trấn Nam Ban, huyện H, tỉnh Đ. Vắng mặt

3.3 Ông Phạm Minh C, sinh năm 1958; Cư trú tại: Thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ. Vắng mặt

3.4 Ông Phạm Đức T, sinh năm 1991; Cư trú tại: Thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ. Vắng mặt

Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Nguyễn Xuân H

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Triếc K’Tân trình bày:

Năm 1995 ông H có khai phá diện tích khoảng 6.000m2 đất tọa lạc tại thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ. Theo kết quả đo đạc hiện trạng của cơ quan chuyên môn thì diện tích đất này gồm: 1681m2 thuộc một phần thửa 31, diện tích đất 1949m2 thuộc một phần thửa đất số 30; diện tích đất 358m2 thuộc một phần thửa 32; 2604m2 thuộc một phần thửa đất số 33 và 528m2 (chưa được đo đạc) thuộc tờ bản đồ số 30 (bản đồ 299) tọa lạc tại thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ. Toàn bộ diện tích đất nêu trên chưa được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, ông H cũng chưa tiến hành đăng ký kê khai trong sổ mục kê của Ủy ban nhân dân xã Mê Linh. Tại thời điểm khai phá ông H có trồng cây hoa màu ngắn ngày, đến năm 1998 ông H trồng cây cà phê. Tuy nhiên vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông H không chăm sóc thường xuyên nên cây cà phê bị chết hết; năm 2003 ông H cải tạo đất và tiếp tục trồng cây hoa màu ngắn ngày, đến năm 2011 ông H đào hố trồng cây cà phê nhưng không chăm sóc được nên cây cà phê cũng bị chết hết. Năm 2014, ông H trồng chuối xung quanh đất; Đến tháng 9/2019, ông H cho cháu là anh Chử Ngọc H canh tác, anh H đã phát cỏ và trồng chuối, cây mác ca, dựng 01 căn nhà gỗ khoảng 20m2 trên đất thì xãy ra tranh chấp, Ủy ban nhân dân xã Mê Linh tiến hành hòa giải nhưng không thành. Do vậy, ông Nguyễn Xuân H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Văn H1 phải trả lại diện tích đất lấn chiếm theo kết quả đo đạc hiện trạng là 1681m2 thuộc một phần thửa 31, diện tích đất 1949m2 thuộc một phần thửa đất số 30; diện tích đất 358m2 thuộc một phần thửa 32, đều thuộc tờ bản đồ số 30 (bản đồ 299) tọa lạc tại thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ. Đồng thời, ông H yêu cầu Tòa án công nhận Quyền sử dụng đất đối với các thửa đất nêu trên cho ông H. Đối với phần diện tích đất là 2604m2 thuộc một phần thửa đất số 33, thuộc tờ bản đồ số 02 (bản đồ 299) và diện tích đất 528m2 chưa được đo đạc, ông H xin rút một phần yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông H theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, ông H không yêu cầu gì thêm.

Bị đơn ông Nguyễn Văn H1 trình bày: Nguồn gốc các thửa đất mà ông Nguyễn Xuân H tranh chấp với ông là do ông nhận chuyển nhượng của bà Phạm Thị Y, Địa chỉ: Thôn 6, xã Gia Lâm, huyện H, tỉnh Đ có diện tích khoảng 5000m2 với giá là 03 chỉ vàng 9999. Ông đã trả đủ vàng cho bà Y, bà Y có viết giấy bán đất viết tay cho ông. Tuy nhiên do sơ suất nên ông đã làm thất lạc giấy này. Đến ngày 06/5/2020, ông đã liên hệ thì bà Y viết lại giấy xác nhận bán đất cho ông. Bà Y giao đất cho ông sử dụng từ cuối năm 1996. Ông đã tiến hành trồng cây hoa màu, trồng một số cây cà phê, cây dâu tằm trên đất. Quá trình sử dụng đất, ông có đăng ký kê khai thửa đất số 30, 31, 32 trong sổ mục kê năm 2011 của Ủy ban nhân dân xã Mê Linh. Ngày 23/4/2020 thì ông Chử Ngọc H, ông Thương, ông H và một số người khác ông không biết tên đến tranh chấp phần diện tích đất nêu trên, ông đã làm đơn đề nghị Ủy ban nhân dân xã Mê Linh giải quyết, Ủy ban nhân dân xã tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai vào ngày 14/10/2021 nhưng không thành. Qua yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì ông không đồng ý; Đồng thời có đơn phản tố yêu cầu Tòa án công nhận diện tích đất 1681m2 thuộc một phần thửa 31, diện tích đất 1949m2 thuộc một phần thửa đất số 30; diện tích đất 358m2 thuộc một phần thửa 32, đều thuộc tờ bản đồ số 30 (bản đồ 299) tọa lạc tại thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ thuộc quyền sử dụng hợp pháp cho ông; Đối với yêu cầu buộc ông Nguyễn Xuân H phải tháo dỡ 01 lán trại tạm khoảng 20m2, di dời vật dụng ra khỏi lô đất thì này phía người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xác định toàn bộ lán trại tạm này đã bị hư hỏng, mục nát không còn giá trị sử dụng nên ông thống nhất rút phần yêu cầu khởi kiện này; Đối với phần diện tích đất là 2604m2 thuộc một phần thửa đất số 33, thuộc tờ bản đồ số 30 (bản đồ 299) tọa lạc tại thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ thì ông H đã có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với phần diện tích đất này thì ông cũng thống nhất rút một phần yêu cầu phản tố đối với phần diện tích đất này. Ngoài ra, ông H không yêu cầu gì thêm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị L trình bày: Bà thống nhất với yêu cầu của ông H1 (chồng bà). Trong vụ án này bà không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề gì.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm 109/2023/DS-ST ngày 21/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện H.

Tuyên xử:

1. Không chấp yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân H về việc:

“Tranh chấp Quyền sử dụng đất” với bị đơn ông ông Nguyễn Văn H1.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân H về việc buộc ông Nguyễn Văn H1 phải trả lại diện tích đất 1681m2 thuộc một phần thửa 31, diện tích đất 1949m2 thuộc một phần thửa đất số 30; diện tích đất 358m2 thuộc một phần thửa 32, đều thuộc tờ bản đồ số 30 (bản đồ 299) tọa lạc tại thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ và cũng như việc ông Nguyễn Xuân H yêu cầu công nhận Quyền sử dụng đất nêu trên cho ông Nguyễn Xuân H.

Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân H về việc “Tranh chấp Quyền sử dụng đất” với ông Nguyễn Văn H1 đối với diện tích đất 2604m2 thuộc một phần thửa đất số 33, thuộc tờ bản đồ số 30 (bản đồ 299) tọa lạc tại thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ và diện tích đất 528m2 chưa được đo đạc theo bản đồ địa chính, chưa có số thửa đất.

2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn H1.

Giao cho ông Nguyễn Văn H1 có quyền sử dụng đối với diện tích đất 1681m2 thuộc một phần thửa 31, diện tích đất 1949m2 thuộc một phần thửa đất số 30; diện tích đất 358m2 thuộc một phần thửa 32, đều thuộc tờ bản đồ số 30 (bản đồ 299) tọa lạc tại thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ (có họa đồ đo đạc hiện trạng sử dụng đất kèm theo).

Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn H1 về việc yêu cầu Tòa án công nhận diện tích đất là 2604m2 thuộc một phần thửa đất số 33, thuộc tờ bản đồ số 30 (bản đồ 299) tọa lạc tại thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ.

Ngoài ra Bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 05/10/2023, nguyên đơn ông Nguyễn Xuân H kháng cáo đề nghị sửa Bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa hôm nay:

Nguyên đơn ông Nguyễn Xuân H vẫn giữ nguyên kháng cáo.

Bị đơn ông Nguyễn Văn H1 không đồng ý kháng cáo của nguyên đơn và đề nghị giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ phát biểu: Về thủ tục tố tụng Thẩm phán, Hội đồng xét xử thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự cũng đã chấp hành đầy đủ giấy báo của Tòa án, thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên tòa phúc thẩm. Về nội dung: Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và qua tranh tụng công khai tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, sửa Bản án dân sự sơ thẩm về cách tuyên án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Chử Ngọc H, anh Phạm Đức Tr, ông Phạm minh Chính đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 để tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về quan hệ tranh chấp: Xuất phát từ việc ông Nguyễn Xuân H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Văn H1 phải trả lại diện tích đất lấn chiếm là 1681m2 thuộc một phần thửa 31; diện tích đất 1.949m2 thuộc một phần thửa đất số 30; diện tích đất 358m2 thuộc một phần thửa 32, đều thuộc tờ bản đồ số 30 (bản đồ 299) tọa lạc tại thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ. Bị đơn ông H1 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất cho ông H1 đối với diện tích 1.681m2 thuộc một phần thửa 31, diện tích đất 1949m2 thuộc một phần thửa đất số 30; diện tích đất 358m2 thuộc một phần thửa 32, đều thuộc tờ bản đồ số 30 (bản đồ 299) tọa lạc tại thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ nên các bên phát sinh tranh chấp. Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp Quyền sử dụng đất” là có căn cứ.

[3] Xét kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Xuân H thấy rằng:

[3.1] Theo tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện, tại đơn xin xác nhận ghi ngày 02/8/2019 do ông H giao nộp cho Tòa án thì ông Phạm Văn L xác nhận nội dung: “Năm 2014 tôi Phạm Văn L có thấy hộ anh Nguyễn Xuân H có làm trên mảnh đất đó thuộc xóm 5, thôn 9, xã Mê Linh, H, Đ. Lúc đó tôi làm trưởng thôn”, ông Trần Văn L1 xác nhận nội dung: “Tôi Trần Văn L1 xác nhận của anh Nguyễn Xuân H thấy làm ở gần đất nhà tôi, hướng tây nam, giáp ranh là đúng”, ông Phùng Văn V xác nhận nội dung với tư cách là Ban quản lý thôn 9: “ngày 12/2/2012 ông Nguyễn Xuân H có mảnh đất tại thôn 9 khai hoang tự làm là đúng sự thật” và ông Phạm Đức Tr xác nhận nội dung: “tôi tên Phạm Đức Tr giáp ranh hướng bắc với đất của anh H là đúng sự thật”.

Qua nội dung xác minh thấy rằng: Diện tích đất xác nhận cho ông H chính là diện tích đất hiện nay ông H và ông H1 phát sinh tranh chấp. Tuy nhiên không có nội dung, tài liệu nào xác thực về nguồn gốc cũng như việc ông H sử dụng đất là ổn định, lâu dài. Ngoài giấy xác nhận trên ra thì ông H không cung cấp tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Hơn nữa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cũng khẳng định: Ông H chưa đăng ký kê khai quyền sử dụng vào sổ mục kê của Ủy ban nhân dân xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ đối với diện tích đất tranh chấp. Khi các hộ dân có đất giáp ranh với diện tích đất tranh chấp làm thủ tục đăng ký kê khai quyền sử dụng đất thì họ không ký xác nhận hộ có đất giáp ranh với ông H. Do đó, yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân H là không có căn cứ chấp nhận.

[3.2] Xét yêu cầu của ông H1 về việc yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 1.681m2 thuộc một phần thửa 31, diện tích đất 1949m2 thuộc một phần thửa đất số 30; diện tích đất 358m2 thuộc một phần thửa 32, đều thuộc tờ bản đồ số 30 (bản đồ 299) tọa lạc tại thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ nhận thấy:

Tại nội dung giấy xác nhận bán đất lập ngày 06/5/2020, bà Phạm Thị Y khẳng định: Bà có mảnh đất tại thôn Đông Anh 3, Nam Ban, H, Đ (nay thuộc thôn 9, Mê Linh, H, Đ). Do không làm được bà đã bán cho anh Nguyễn Văn H1 vào ngày 12/10/1996, diện tích khoảng 5000m2 với số tiền là 3 chỉ vàng 9999 (đã trả tiền đầy đủ), phía đông giáp H1, phía tây giáp suối, nam giáp anh Hoan, bắc giáp Thành Nhung, trên đất đã trồng cây hoa màu, đất không có tranh chấp. Phía cuối giấy có xác nhận của trưởng thôn và nguyên trưởng thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ.

Như vậy, nội dung giấy xác nhận trên có sự trùng khớp về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất theo như ông H1 khai đối với diện tích 1.681m2 thuộc một phần thửa 31, diện tích đất 1.949m2 thuộc một phần thửa đất số 30; diện tích đất 358m2 thuộc một phần thửa 32, đều thuộc tờ bản đồ số 30 (bản đồ 299) tọa lạc tại thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ.

Đồng thời, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh địa chính xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ thì được cung cấp thông tin: Theo sổ mục kê năm 2011 lưu trữ tại Ủy ban nhân dân xã Mê Linh thì thửa 30 có diện tích 2019m2; thửa 31 có diện tích 1764m2; thửa 32 có diện tích 7892m2 đều thuộc tờ bản đồ số 30 xã Mê Linh, huyện H, ông Nguyễn Văn H1 đăng ký tên trên sổ mục kê địa chính; mục đích sử dụng đất là cây lâu năm, chi tiết là đất trồng cà phê.

Xét về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất: Ông Nguyễn Văn H1 là người sử dụng liên tục, ổn định, lâu dài từ năm 1996 đến nay, trên đó đã trồng cà phê, dâu tằm và trồng cây ngắn ngày trên đất nên có cơ sở để công nhận diện tích 1681m2 thuộc một phần thửa 31, diện tích đất 1949m2 thuộc một phần thửa đất số 30; diện tích đất 358m2 thuộc một phần thửa 32, đều thuộc tờ bản đồ số 30 (bản đồ 299) tọa lạc tại thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ cho ông H1.

[4] Đối với việc nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện, bị đơn xin rút một phần yêu cầu phản tố về việc tranh chấp quyền sử dụng đất đối với phần diện tích đất là 2604m2 thuộc một phần thửa đất số 33, thuộc tờ bản đồ số 30 (bản đồ 299) tọa lạc tại thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ và diện tích đất 528m2 chưa được đo đạc theo bản đồ địa chính, chưa có số thửa đất. Xét thấy, đây là sự tự nguyện của các đương sự, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử cần Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện, đình chỉ một phần yêu cầu phản tố là phù hợp.

[5] Diện tích đất tranh chấp nêu trên chưa được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, cấp sơ thẩm tuyên giao cho bị đơn là chưa phù hợp, cần sửa lại cách tuyên án, tuyên tạm giao cho bị đơn quản lý, sử dụng diện tích trên, các đương sự có nghĩa vụ đăng ký kê khai với chính quyền địa phương theo qui định của pháp luật đất đai.

[6] Từ những phân tích trên, kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Xuân H là không có cơ sở chấp nhận. Cần sửa Bản án sơ thẩm theo hướng nhận định trên.

[7] Chi phí cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ tài sản; đo đạc và định giá tài sản là 4.848.000đ. Ông H đã nộp đủ và đã được quyết toán xong. Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền xác định nguyên đơn nhận chịu toàn bộ chi phí tố tụng. Đây là sự tự nguyện của đương sự, cần ghi nhận.

[8] Về án phí:

Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Nguyễn Xuân H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.

Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không được chấp nhận nên buộc nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 02 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Xuân H, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 109/2023/DS-ST ngày 21/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện H.

Tuyên xử:

1. Không chấp yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân H về việc: “Tranh chấp Quyền sử dụng đất” với bị đơn ông ông Nguyễn Văn H1.

Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân H về việc “Tranh chấp Quyền sử dụng đất” với ông Nguyễn Văn H1 đối với diện tích đất 2.604m2 thuộc một phần thửa đất số 33, thuộc tờ bản đồ số 30 (bản đồ 299) tọa lạc tại thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ và diện tích đất 528m2 chưa được đo đạc theo bản đồ địa chính, chưa có số thửa đất.

2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn H1.

Tạm giao cho ông Nguyễn Văn H1 quản lý, sử dụng đối với diện tích đất 1.681m2 thuộc một phần thửa 31, diện tích đất 1.949m2 thuộc một phần thửa đất số 30; diện tích đất 358m2 thuộc một phần thửa 32, đều thuộc tờ bản đồ số 30 (bản đồ 299) tọa lạc tại thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ.

(có họa đồ đo đạc hiện trạng sử dụng đất kèm theo).

Các đương sự có quyền và nghĩa vụ liên hệ cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để thực hiện việc đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai hiện hành.

Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn H1 về việc yêu cầu Tòa án công nhận diện tích đất là 2.604m2 thuộc một phần thửa đất số 33, thuộc tờ bản đồ số 30 (bản đồ 299) tọa lạc tại thôn 9, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ.

3. Về án phí:

- Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Xuân H phải chịu số tiền 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm 300.000đ theo Biên lai thu số 0000182 ngày 18/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H.

- Án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Nguyễn Xuân H phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền án án phí dân sự sơ thẩm, được trừ số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002923 ngày 16/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H. Hoàn trả lại cho ông Nguyễn Xuân H 4.700.000đ (bốn triệu bảy trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí còn dư.

Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn H1 số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003109 ngày 14/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H.

4. Về chi phí tố tụng: Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Xuân H nhận chịu toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ tài sản; đo đạc và định giá tài sản là 4.848.000đ (bốn triệu tám trăm bốn mươi tám ngàn đồng). Số tiền này, ông Nguyễn Xuân H đã nộp đủ và đã được quyết toán xong.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

65
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 10/2024/DS-PT

Số hiệu:10/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:16/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về