TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 05/2022/DS-PT NGÀY 05/01/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 05 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 226/2021/TLPT-DS ngày 10 tháng 8 năm 2021 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 129/2021/DS-ST ngày 22/6/2021 của Tòa án nhân dân thành phố C bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 195/2021/QĐ-PT ngày 25 tháng 10 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Dương Tấn B, sinh năm 1960.
Địa chỉ: Số 294, đường L, khóm C, phường S, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Chị Dương Thị Ngọc B, sinh năm 1983. Địa chỉ: Số 11, Liên kế 28, khóm S, phường C, thành phố C, tỉnh Cà Mau (Theo Văn bản ủy quyền ngày 29/11/2021) (có mặt) - Bị đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1955.
Địa chỉ: Đường K, khóm M, phường S, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Anh Dương Quốc V, sinh năm 1980; Địa chỉ: Đường K, khóm M, phường S, thành phố C, tỉnh Cà Mau. (Theo Văn bản ủy quyền ngày 03/01/2021) (có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Hải V, là Luật sư của Văn phòng Luật sư Lê Thanh Th, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Cà Mau. (có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Lưu Thị Kim A, sinh năm 1961; Địa chỉ: Số 294, đường L, khóm C, phường S, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện hợp pháp của bà Ánh: Chị Dương Thị Ngọc B, sinh năm 1983. Địa chỉ: Số 11, Liên kế 28, khóm 6, phường 9, thành phố C, tỉnh Cà Mau. (Theo Văn bản ủy quyền ngày 29/11/2021) (có mặt) 2/ Ông Dương Quốc V, sinh năm 1980;
3/ Ông Dương Quốc N, sinh năm 1982;
4/ Bà Dương Ngọc B, sinh năm 1985;
5/ Ông Dương Quốc T, sinh năm 1992;
6/ Chị Lưu Thị H, sinh năm 1980;
Cùng địa chỉ: Đường K, khóm M, phường S, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện hợp pháp của ông Nam, ông Toản, bà Bích, bà Hoa: Anh Dương Quốc V, sinh năm 1980; Địa chỉ: Đường K, khóm M, phường S, thành phố C, tỉnh Cà Mau (Theo Văn bản ủy quyền ngày 19/4/2021) (có mặt).
- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị N.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Ông Dương Tấn B trình bày: Năm 2000 ông được cha mẹ là Dương Tấn S, Trần Thị H cho phần đất có diện tích 300m2, tọa lạc tại khóm M, phường S, thành phố C. Năm 2002 ông được Ủy ban nhân dân thành phố C cấp chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2019 ông phát hiện bà Nguyễn Thị N xây dựng nhà lấn sang phần đất của ông có kích thước ngang 0,6m, dài 40m nên yêu cầu bà N tháo dỡ nhưng bà N không đồng ý. Nay yêu cầu buộc bà N tháo dỡ kiến trúc xây dựng trả lại đất lấn chiếm cho ông với diện tích theo đo đạc thực tế là 41m2.
Bà Nguyễn Thị N trình bày: Khoảng năm 1974 – 1975 bà cùng chồng là ông Dương Hoàng D về khóm 10, phường 6, thành phố C sống cùng cha mẹ chồng là Dương Văn S và Bùi Thị Đ trên phần đất có diện tích 1.100m2. Sau đó ông S, bà Đ cho toàn bộ phần đất trên cho vợ chồng bà. Năm 1982 ông D bỏ nhà đi đến nay không có tin tức, bà cùng con trai là Dương Quốc V trực tiếp quản lý phần đất này cho đến nay. Năm 2017 bà cùng gia đình ông B tiến hành căng dây, định ranh để bà xây dựng nhà ở.
Nhà ở và kiến trúc xây dựng hiện tại là dựa vào thoả thuận ranh giới giữa bà với gia đình ông B. Bà xác định không lấn đất nên không chấp nhận khởi kiện do ông B đặt ra.
Ông Dương Quốc V trình bày: Thống nhất với nội dung và yêu cầu của bà N.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 129/2021/DS-ST ngày 22/6/2021 của Tòa án nhân dân thành phố C đã quyết định:
Chấp nhận khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bà Nguyễn Thị N, ông Dương Quốc V, ông Dương Quốc N, bà Dương Bích Ng, ông Dương Quốc T, bà Lưu Thị H tháo dỡ toàn bộ các công trình kiến trúc xây dựng trên đất hoàn trả cho ông Dương Tấn B diện tích đất 41m2 tọa lạc tại khóm 10, phường 6, thành phố C (theo bảng vẽ trích đo hiện trạng ngày 28/12/2020 của Trung tâm kỹ thuật công nghệ - quan trắc tài nguyên và môi Trường thuộc Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh Cà Mau).
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, nghĩa vụ do chậm thi hành án, quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự trong giai đoạn thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo luật định.
Ngày 05/7/2021 bà Nguyễn Thị N kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận khởi kiện của nguyên đơn.
Căn cứ kháng cáo:
- Án sơ thẩm căn cứ vào diện tích đất để dùng làm một trong những căn cứ xác định bà N lấn chiếm đất ông B là không phù hợp bởi đất của bà N khi đo đạt cũng bị thiếu diện tích.
- Cấp sơ thẩm không thu thập, xác định qui trình Ủy ban nhân dân thành phố C cấp quyền sử dụng đất cho ông B để xác định tính hợp pháp của qui trình này là chưa đảm bảo căn cứ đánh giá toàn diện vụ việc.
- Bà N xây dựng nhà có thoả thuận ranh với gia đình ông B, bà Ánh nên không thể nói bà N lấn đất.
Đề nghị sửa án sơ thẩm, chấp nhận kháng cáo của bà N, bác đơn kiện của ông B.
Đại diện Viện kiểm sát nhân tỉnh Cà Mau phát biểu quan điểm: Kháng cáo không có căn cứ. Đề nghị áp dụng Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục: Kháng cáo của bà Nguyễn Thị N làm trong hạn luật định, hợp pháp.
[2] Về nội dung:
Phần đất của bà N đang quản lý, sử dụng có nguồn gốc là của ông Dương Văn S và bà Bùi Thị Đ cho lại vợ chồng người con ông Dương Hoàng D và bà Nguyễn Thị N vào năm 1982. Ngoài khai nhận của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên toà này các đương sự vẫn khẳng định nội dung trên.
Tại cấp sơ thẩm, bà N, anh Việt xác định ông Dương Hoàng D bỏ nhà đi biệt tích từ năm 1982 cho đến nay, không có liên hệ với gia đình, vợ con và người thân hiện không rõ địa chỉ nơi ở hiện nay.
Tại phiên toà phúc thẩm anh Việt lại xác định ông Dương Hoàng D bỏ nhà đi, có liên hệ với gia đình nhưng không thường xuyên, gia đình không rõ địa chỉ nơi ở hiện nay.
Nên xác định ông D mặc dù không tham gia quản lý phần đất này nhưng quyền lợi của ông D đối với phần đất tranh chấp là vẫn tồn tại, chưa có căn cứ nói ông D từ bỏ quyền lợi đối với quyền sử dụng tại phần đất này. Cấp sơ thẩm cho rằng ông D không có liên quan gì đến vụ án nên không đưa ông D vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án này là chưa phù hợp, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông D, cấp phúc thẩm không khắc phục được. Nên hủy án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ kiện về Toà án nhân dân thành phố C thụ lý, xét xử lại, đưa ông D vào tham gia tố tụng theo qui định chung.
[3] Do hủy án về thủ tục nên không xem xét, đánh giá về nội dung, đường lối xử lý vụ án mà Viện kiểm sát đề nghị.
[4] Án phí sơ thẩm, chi phí đo đạc thẩm định tại chỗ chưa xác định trách nhiệm người thanh toán, sẽ được quyết định khi cấp sơ thẩm tiến hành xử lý lại vụ án.
Bà N không phải chịu án phí phúc thẩm, đã dự nộp được nhận lại.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 3 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số: 129/2021/DS-ST ngày 22/6/2021 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Giao hồ sơ vụ án về cho Toà án nhân dân thành phố C, tỉnh Cà Mau thụ lý, xét xử lại theo thủ tục chung.
2. Án phí sơ thẩm, chi phí đo đạc thẩm định tại chỗ chưa xác định trách nhiệm người thanh toán, sẽ được quyết định khi cấp sơ thẩm tiến hành xử lý lại vụ án.
Bà Nguyễn Thị N không phải chịu án phí phúc thẩm, bà N đã dự nộp 300.000 đồng tại biên lai số 0001276 ngày 07/7/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố C, được nhận lại.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 05/2022/DS-PT
Số hiệu: | 05/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 05/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về