Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 04/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 04/2024/DS-ST NGÀY 31/01/2024 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 31 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 102/2023/TLST-DS ngày 13 tháng 7 năm 2023, về tranh chấp quyền sử dụng đất theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2024/QĐXXST-DS ngày 05 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Tô Thị H, sinh năm 1969. Địa chỉ cư trú: khóm T, thị trấn T, huyện H, tỉnh Đ. Có mặt.

2. Bị đơn: Chị Đỗ Thị N, sinh năm 1986. Địa chỉ cư trú: ấp C, xã T, huyện H, tỉnh Đ. Có mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1 Bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1970. Địa chỉ cư trú: khóm T, thị trấn T, huyện H, tỉnh Đ, vắng mặt.

3.2 Ông Tô Chí D, sinh ngày 01/01/1965. Địa chỉ cư trú: ấp L, xã L, huyện H, tỉnh Đ.

Người đại diện hợp pháp cho ông Tô Chí D theo ủy quyền là bà Tô Thị H, sinh năm 1969.

Địa chỉ: khóm T, thị trấn T, huyện H, tỉnh Đ (Giấy ủy quyền ngày 20/9/2023 và hợp đồng ủy quyền ngày 30/10/2023). Có mặt.

4. Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn H1, sinh năm 1941. Địa chỉ cư trú: khóm T, thị trấn T, huyện H, tỉnh Đ. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03/7/2023, trong quá trình tiến hành tố tụng cũng như tại phiên tòa sơ thm. Nguyên đơn bà Tô Thị H cũng là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông Tô Chí D, trình bày:

Bà và chị N không có quan hệ bà con. Nguồn gốc đất tranh chấp là của ông ngoại bà tên Nguyễn Văn T (đã chết) cho mẹ bà tên Nguyễn Thị N1 (đã chết năm 2012), việc cho đất vào năm nào, có diện tích bao nhiêu không nhớ, đến năm 2013 thì đất trúng quy hoạch, làm bờ bao khép kín, Ủy ban nhân dân huyện H thu hồi phần đất của mẹ bà có diện tích 643,7m2. Tại phiên tòa bà H khai trong đó của mẹ bà khoảng 500m2 của anh ruột tên Tô Chí D khoảng hơn 100m2, thuộc thửa đất số 1195, 1212, thuộc tờ đồ số 5 do ông D nhận tiền bồi thường với số tiền hơn 96.000.000đ. Ông D nhận tiền bồi thường là do đất của mẹ bà để lại, chưa chia cho các con.

Cha bà tên Tô Văn Đ (chết năm 2012). Cha mẹ bà có tổng cộng 08 người con: 1. Tô Văn T1 (chết năm 2011), 2. Tô Thị K; 3. Tô Thị C, 4. Tô Phước H2 (chết năm 2016 - 2017); 5. Tô Chí D, 6. Tô Thanh S, 7. Tô Thị H và 8. Tô Thị Út. Khi cha mẹ bà còn sống đã chia đất ruộng cho các con, mỗi người con gái được 3.000m2, mỗi người con trai được 5.000m2, phần đất còn lại bà không rõ diện tích để lại cho ông Tô Chí D tức là phần đất bị thu hồi và đang tranh chấp. Phần đất đang tranh chấp là của cha mẹ cho ông D có diện tích khoảng hơn 1.200m2 nhưng tại phiên tòa bà H khai diện tích khoảng 1.100m2. Không nhớ ngày tháng năm, Ủy ban nhân dân huyện H thu hồi đất thì phần đất còn lại, là đất tranh chấp đã cho lại bà, không rõ cho năm nào, diện tích bao nhiêu, khi được ông D hay bà được cho đất thì không có chôn trụ đá, chỉ biết tứ cận phía trong giáp đất ông Đỗ Văn T2 hiện là do chị N đứng tên quyền sử dụng đất, phía ngoài giáp đất bờ kênh, phía trên giáp đất ông Tô Thanh S, phía dưới giáp đất ông T2 nhưng hiện do chị Đỗ Thị Đ1 quản lý. Đất tranh chấp giữa bà với chị N không có chôn trụ đá hay trồng cây gì làm ranh, nhưng bà xác định là theo sơ đồ đo đạc từ các mốc M1, M2, M7, M8 trở về mốc M1. Trước khi ông D cho đất bà thì đất ông D với đất ông T2 hiện giáp với đất tranh chấp cũng không có chôn trụ đá ranh. Việc ông D cho đất bà không có làm giấy tờ, chỉ có anh em biết nhưng vào ngày 20/9/2023 ông D đã làm giấy ủy quyền cho bà, mục đích giấy ủy quyền để bà làm đơn khiếu nại, tranh chấp với chị N nhưng tại phiên tòa bà H trình bày, đất tranh chấp là của mẹ bà để lại, trồng cây lấy củi không có chia cho người con nào, kể cả ông D.

Vào tháng 8 năm 2022 bà có đến một cửa của Ủy ban nhân dân huyện H để đăng ký kê khai quyền sử dụng đất, đối với phần đất tranh chấp thì được biết đất tranh chấp đã được cấp quyền sử dụng đất cho chị Nguyễn n bà tranh chấp cho đến nay. Khi Ủy ban nhân dân huyện thu hồi đất làm bờ bao khép kín, có đo đạc đất, bà là người trực tiếp đứng đo đất và chỉ ranh nên biết việc thu hồi đất. Bà cũng như anh em bà không có ai khiếu nại hay thắc mắc về việc đất bị thu hồi cũng như tiền bồi thường. Tại phiên tòa bà H, trình bày: Trên đất tranh chấp có 02 ngôi mộ của người thân bà, bà di dời mộ bởi vì đường làm ngay chân mộ, Nhà nước chỉ bồi thường phân nửa đất bà không đồng ý có khiếu nại, có kêu bồi thường hết đất nhưng Nhà nước nói bồi thường cho bà không đủ tiền, ai cũng như vậy thì sao đủ tiền bồi thường, bà chỉ nói miệng, không có làm đơn và bà không có trồng cây, chôn trụ đá làm ranh hay làm hàng rào đối với phần đất hiện đang tranh chấp, vì không biết, nghĩ đất của mình thì còn ở đó.

Phần đất tranh chấp chị Nguyễn t dừa, làm hàng rào trước Tết năm 2022, khi chị N làm hàng rào, trồng dừa bà chỉ nói miệng, không có thưa kiện. Khi bà Q mua phần đất từ chị N thì bà có biết, có trực tiếp nói chuyện với bà Q là đất của bà đang tranh chấp với chị N, kêu bà Q không được mua, việc bà nói chuyện với bà Q thì có mặt ông S, ông Đỗ Văn N2, bà T3, bà Q biết. Bà T3, bà Q là người mua đất của chị N nói với bà là chỉ đến xem đất, đo đất khi nào giải quyết xong mới mua, lúc đó đất tranh chấp chưa có làm hàng rào, khi làm hàng rào xong thì bà mới biết bà Q đã mua đất tranh chấp rồi. Bà có báo chính quyền địa phương nhưng ông T4 tư pháp Thường Phước 2 có nói, người ta làm hàng rào, kệ người ta, khi nào thưa nếu đất của bà thì người ta dở ra, bà chỉ nói miệng nên xã không lập biên bản về việc phía bà Q, chị N xây dựng hàng rào. Bà Q cũng như chồng bà Q không có lần nào kêu bà đến nhà nói chuyện, về việc đất tranh chấp là của bà hay của chị N.

Khi bà nhận Sơ đồ đo đạc hiện trạng đất tranh chấp từ Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện H, Tòa án có giải thích cho bà, đất tranh chấp không do chị N, bà Q đứng tên quyền sử dụng đất, mà đất thuộc đất giao thông do Nhà quản lý, nghĩa là không thuộc sở hữu của bất cứ ai nhưng bà không đồng ý, vì nguồn đất là của cha mẹ bà để lại cho ông D, ông D cho lại bà. Ông D có hai người con, nguyên nhân ông D không để lại đất cho hai người con của mình mà cho đất tranh chấp cho bà, vì đất ruộng của ông D nhiều. Trước đây bà khởi kiện chỉ yêu cầu chị N trả lại cho bà phần đất có diện tích 351m2, trong đó có chiều ngang 4,5m x chiều dài 78m nhưng khi Tòa án tiến hành xem xét thẩm định thì bà xác định chiều ngang một đầu 13,2m, một đầu 7,6m, chiều dài một cạnh 67,6m, một cạnh 64,3m, tổng diện tích 635,4m2 nhưng chỉ yêu cầu chị N trả lại cho bà phần đất có diện tích 351m2, bà thống nhất bỏ lề đường nhưng không rõ diện tích bao nhiêu, chỉ biết theo sơ đồ đo đạc thực tế lấy cho bà từ mốc M2, M7 trở ra lề đường miễn sao đủ cho bà 351m2, bà không xác định được từ mốc M2, M7 trở ra đường có chiều dài, chiều ngang bao nhiêu, chỉ biết tổng diện tích yêu cầu chị Nguyễn t1 lại là 351m2 thuộc tờ bản đồ số 32, thửa số mấy không nhớ, đất tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện H, tỉnh Đ. Tại phiên tòa bà H trình bày: Yêu cầu chị Đỗ Thị Nguyễn t2 lại cho bà phần đất theo sơ đồ đo đạc thực tế có diện tích 635,4m2 trong phạm từ các mốc M1, M2, M7, M8 trở về mốc M1, nếu Tòa án quyết định đất tranh chấp là đất giao thông của Nhà nước quản lý thì chị N không được làm hàng rào, trồng dừa, phải di dời trả lại đất để bà tranh chấp, khiếu nại Ủy ban Huyện trả lại đất cho bà.

Khi khiếu nại tại Ủy ban nhân dân xã T thì bà không có thưa hay khiếu nại bà Q, chỉ khởi kiện chị N. Việc chị N chuyển nhượng đất cho bà Q thì bà không biết nhưng tại phiên tòa, bà H khai bà biết chị N chuyển nhượng đất và bà có nói với bà Q đất của bà đang tranh nhưng bà Q nói chỉ coi đất, khi nào giải quyết xong hết thì mới mua, bà không tranh chấp hay yêu cầu gì đối với bà Q. Ngoài ra, bà không yêu cầu nào khác.

Trong quá trình tiến hành tố tụng cũng như tại phiên tòa bị đơn chị Đ Thị N, trình bày: Nguồn gốc đất tranh chấp là của ông nội chị tên Đỗ Văn T2 (chết) cho cha ruột chị tên Đỗ Văn N2, không nhớ rõ cho đất vào ngày tháng năm nào, phần đất có diện tích hơn 5.000m2, thuộc thửa đất nào không nhớ, chỉ nhớ thuộc tờ bản đồ số 32, đất tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện H. Vào năm 2015-2016 ông N2 cho lại chị phần đất trên và chị được cấp quyền sử dụng đất vào năm 2015-2016. Phần đất tranh chấp gia đình chị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 23/9/1989.

Vào khoảng năm 2010-2011 thì phần đất được cho trúng quy hoạch làm đê bao, có diện tích bao nhiêu không nhớ, không nhớ được bồi thường bao nhiêu tiền, vì ngoài phần đất tranh chấp ra thì còn phần đất khác trúng quy hoạch nhưng không rõ vị trí đất. Phần đất tranh chấp trước khi làm đê bao thì phía trên giáp đất ông Bảy S1, phía dưới giáp đất chị Đ1, phía giáp ngoài đất đường đi (kênh), phía trong giáp đất của chị, đất của chị không có giáp với đất bà H, ông D. Đất gia đình chị được sử dụng không có chôn trụ đá hay trồng cây xác định ranh, chỉ có khi chuyển nhượng đất cho bà Q có đo đạc thực tế và ông Bảy S1, chị Đ1 có chỉ ranh, xác định ranh đất nên mới chôn trụ đá làm ranh, khi chị Đ1, ông S1 thống nhất xác định ranh đề chị làm hàng rào chuyển nhượng đất thì họ không có nói đất của chị làm hàng rào là của bà H. Ông Bảy S1 là anh ruột của bà H, chị Đ1 là cháu ruột bà H. Hàng rào trên đất tranh chấp không nhớ xây dựng khi nào, chỉ nhớ sau khi làm thủ tục chuyển nhượng cho bà Q, nghĩa là sau ngày 20/10/2022, khi xây dựng hàng rào thì bà H có ý kiến với địa chính, bà H không chỉ được đất của bà H tới đâu nhưng địa chính nói đất của chị theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp nên vẫn đo đạc làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đất cho bà Q.

Khi chị chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Q thì không ai tranh chấp, sau khi chuyển nhượng đất cho bà Q thì có nghe bà H tranh chấp nhưng chỉ nói miệng, không có chính quyền địa phương mời làm việc. Bà H có thưa chị tại Ủy ban nhân dân xã T 2 nhưng chị không tham gia hòa giải, vì Ủy ban xã mời hòa giải ngay những ngày chị đi khám bệnh nên không tham gia.

Hàng dừa chị trồng trước khi bán đất cho bà Q khoảng 02 năm, không ai tranh chấp hay ngăn cản, không biết bà H có biết không nhưng anh em của bà H biết, vì có đất giáp đất của chị, phần đất phía giáp kênh, phía ngoài đường thì trước đó cha chị có cho chị G và chỗ hàng rào ngay phần đất đang tranh chấp trồng cỏ nhưng sau khi bán đất cho bà Q thì bà Q không cho chị G tiếp tục trồng cỏ nữa. Chị không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà H. Chị không có tranh chấp hay yêu cầu gì đối với phần đất đã chuyển nhượng cho bà Q. Chị đề nghị bà H đừng thưa kiện chị nữa, có gì tranh chấp với Ủy ban, chị không có liên quan. Ngoài ra, không trình bày hay yêu cầu nào khác.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 27/9/2023 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Q, trình bày: Bà không có bà con với bà H, chị N, có quen biết nhưng không có mâu thuẫn với hai bên. Không nhớ ngày tháng năm 2022 bà có mua một phần đất của chị Đỗ Thị N, có diện tích 4.906,4m2 thuộc thửa đất số 1608, tờ bản đồ số 32, tọa lạc tại xã T, huyện H, tỉnh Đ, với giá tiền 480.000đ/1.000m2, bà đã được đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thời điểm mua đất không có ai tranh chấp, ngăn cản. Khi bà đặt cọc tiền mua đất thì bà H biết. Bà H mới nói “bóng gió” với người xung quanh đất bà mua là của ông ngoại hoặc ông nội của bà H để lại, nhưng khi bà gặp bà H kêu bà H nói chuyện về phần đất bà mua thì bà H nói không rảnh, không nói chuyện với bà, bà H cũng chưa từng trực tiếp nói với bà là đất đang tranh chấp là của bà H gì hết. Thấy vậy, bà mới giao (thỏa thuận) với phía chị N là làm hàng rào xung quanh đất hết thì bà mới mua, do đó gia đình chị Nguyễn m làm hàng rào, còn hàng dừa đã có sẵn. Theo bà lúc chị N làm hàng rào thì bà H đưa rước cháu đi học hàng ngày nên phải biết nhưng bà H không có nói gì với bà và chị N. Khoảng hai tuần sau khi làm hàng rào xong không thấy bà H tranh chấp nên bà mới trả tiền cho chị N đầy đủ. Lúc đo đạc làm thủ tục sang tên thì bà H cũng có mặt, bà H nói đất của bà H nhưng bà H không chỉ được đất nằm ở đâu nên địa chính huyện mới nói đo đạc theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông Bảy S1 là anh ruột bà H đứng ra chỉ ranh ngoài, còn anh em của chị Đỗ Thị Đ1 (cháu bà H) đứng ra chỉ ranh trong. Trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà được đứng tên thuộc thửa 1608 tuy nhiên phần đất giao thông cặp mí lộ theo sơ đồ đo đạc thực tế có diện tích 635,4m2 tương ứng một phần đất giao thông, tờ bản đồ số 32, tọa lạc tại xã T, huyện H, tỉnh Đ hiện cũng do bà quản lý, sử dụng (trước đó là chị N quản lý, sử dụng, chưa từng thấy bà H quản lý, sử dụng). Khi mua đất bà giao kèo bà mua luôn hàng dừa và hàng rào, Tòa án có thông báo cho bà biết kết quả định giá tài sản của Hội đồng định giá thì bà thống nhất theo giá trị tài sản mà Hội đồng đã định giá. Nay bà H yêu cầu chị Nguyễn t2 lại phần đất có diện tích 635,4m2 tương ứng một phần đất giao thông, tờ bản đồ số 32, tọa lạc tại xã T, huyện H, tỉnh Đ thì bà không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà H, vì phần đất này hiện do bà quản lý, sử dụng, bà mua đất là nhờ có mặt tiền nếu không có mặt tiền thì lúc đầu bà không mua. Bà không có tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà và chị N. Ngoài ra, bà không có yêu cầu hay trình bày gì khác.

Tại biên bản lay lời khai ngày 29/12/2023 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Tô Chí D, trình bày: Ông là anh ruột của bà Tô Thị H. Phần đất tranh chấp là của ông, bà ông để lại cho ông, khi đất trúng quy hoạch Nhà nước thu hồi và đền bù tiền cho ông. Phần đất của ông có diện tích 1.200m2 Nhà nước thu hồi 600m2 còn lại là phần đất giáp đường. Ông còn nhớ đất ông phía ngoài giáp đất mồ mả, phía trong giáp đất ông N2. Phần còn lại 600m2 ông cho bà H quản lý, sử dụng nhưng bà H không có trồng cây, ông nhớ phần đất ông cho bà H có ngôi mộ (mồ, mã) anh hai ông là Tô Văn T1 và mã bà nội chồng của bà H. Sau đó, Nhà nước yêu cầu di dời nên di dời mồ mả lại khu mã kế bên, Nhà nước yêu cầu thì ông di dời chứ Nhà nước không có thu hồi phần đất tranh chấp. Lúc đó, ông có nói phần còn lại là của ông nhưng Nhà nước nói có thể vô quy hoạch yêu cầu di dời mồ mả nên ông chấp nhận di dời còn Nhà nước đưa bao nhiêu tiền thì ông không nhớ. Sau đó, thấy đường cũng còn y thinh không thấy mở rộng. Nay bà H kiện chị Nguyễn đ lại phần đất có diện tích 351m2 (bà H bỏ phần lề đường) thì ông không có tranh chấp hay yêu cầu gì với bà H, chị N, vì thống nhất đất tranh chấp đã cho bà H. Ngoài ra, không trình bày gì thêm.

Tại biên bản ly lời khai ngày 02/8/2023 cũng như tại phiên tòa người làm chứng ông Nguyễn Văn H1, trình bày: Ông là anh rể của bà H, không có bà con với chị N, không có mâu thuẫn gì hai bên. ông có đất giáp ranh (đất B) với đất tranh chấp, chị Nguyễn b đất, đào ao, làm hàng rào khi nào thì ông không biết. Trước đây, trên đất tranh chấp có mồ mả ông, bà khi Nhà nước làm đường di dời mộ đến phần đất cặp bên trên đất tranh chấp. Nhà nước thu hồi diện tích bao nhiêu, bồi thường bao nhiêu tiền cho ông D ông không biết. Không biết bà H, ông D được cho đất bao nhiêu. Đất của ông cũng bị Nhà nước thu hồi và bồi thường tiền cho ông. Ngoài ra, không trình bày gì thêm.

Tại biên bản định giá tài sản ngày 21/9/2023 “Giá trị đất đang tranh chấp: Đất giao thông do Nhà nước quản lý không định giá được. Giá trị tài sản trên đất tranh chấp: 10 cây dừa có giá 300.000đ/cây; Hàng rào lưới B40 có diện tích 121,35m2 có giá 4.628.000 đồng”.

Tại Công văn số 1539/UBND-HC ngày 25/9/2023 của Ủy ban nhân dân huyện H cung cấp thông tin cho Tòa án có nội dung: “Thửa 1 diện tích 635,4m2 thuộc phần đất giao thông, tờ bản đồ số 32, xã T, theo bản đồ địa chính đang quản lý là đất giao thông do Nhà nước quản lý, không được xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Về tố tụng từ khi thụ lý vụ án và quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán thụ lý giải quyết vụ án theo đúng các quy định của pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tiến hành đúng trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật. Những người tham gia tố tụng chấp hành tốt nội quy phiên tòa. Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Tô Thị H là không có căn cứ chấp nhận, bởi vì:

- Nguồn gốc đất tranh chấp là của cụ Đỗ Văn T2 được Ủy ban nhân dân xã T giao đất sử dụng vào ngày 23/9/1989 (bút lục số 90);

- Sau đó, cụ T2 cho lại diện tích đất hơn 5000m2 cho ông Đỗ Văn N2 và ông N2 đã cho lại chị Đỗ Thị Nguyễn V năm 2015, chị N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2016;

- Trước khi chuyển nhượng đất cho bà Q thì gia đình chị N vẫn quản lý, sử dụng đất tranh chấp;

- Khi chị N làm hàng rào và thủ tục chuyển nhượng đất cho bà Q thì bà H có biết nhưng không khiếu nại hay tranh chấp;

- Bà H cho rằng đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng nhưng bà không biết số thửa, tờ bản đồ, không biết cụ thể diện tích đất bao nhiêu, không biết vị trí đất ở đâu. Ngoài ra, bà H cũng không có chứng cứ gì chứng minh đất tranh chấp là của bà;

- Công văn số 1539 ngày 25/9/2023 của Ủy ban nhân dân huyện H cung cấp: Thửa số 1 có diện tích 635,4m2 thuộc một phần đất giao thông, tờ bản đồ số 32 tại xã T, theo bản đồ địa chính đang quản lý là đất giao thông do Nhà nước quản lý, không được xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Từ đó cho thấy phần đất tranh chấp không thuộc quyền sử dụng của bà H và chị Nguyễn m1 do Nhà nước quản lý.

Từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Tô Thị H về việc yêu cầu bị đơn chị Đỗ Thị Nguyễn t2 lại diện tích đất 351m2 (đo đạc thực tế 635,4m2) thuộc tờ bản đồ số 32 tại xã T.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và lời phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn bà Tô Thị H, yêu cầu chị Đỗ Thị Nguyễn t2 lại quyền sử dụng đất và đất tranh chấp thuộc xã T, huyện H nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 24 Điều 3, điểm b khoản 2 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013, khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Q có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bà Q theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Nguyên đơn bà Tô Thị H yêu cầu chị Đỗ Thị Nguyễn t2 lại phần đất theo sơ đồ đo đạc thực tế ngày 02/8/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện H có diện tích 635,4m2 trong phạm vi từ các mốc M1, M2, M7, M8 trở về mốc M1, thuộc một phần thửa đất giao thông, tờ bản đồ số 32, đất tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện H, tỉnh Đ. Bị đơn chị Đỗ Thị N, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Q không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà H. Hội đồng xét xử nhận thấy:

[4] Bà Tô Thị H lúc thì trình bày nguồn gốc đất tranh chấp là của mẹ bà cho ông Tô Chí D sau đó ông D cho lại bà H, lúc thì cho rằng của mẹ bà để lại chưa chia cho người con nào. Chị Đỗ Thị Nguyễn k thừa nhận nguồn gốc đất là của gia đình bà Tô Thị H.

[5] Tại biên bản lấy lời khai ngày 29/12/2023 của ông Tô Chí D trình bày “ông nhớ phần đất ông cho bà H có ngôi mộ (mã) anh hai ông là Tô Văn T1 và mã bà nội chồng của bà H. Sau đó, Nhà nước yêu cầu di dời nên di dời mồ mả lại khu mã kế bên, Nhà nước yêu cầu thì ông di dời chứ Nhà nước không có thu hồi phần đất tranh chấp. Lúc đó, ông có nói phần còn lại là của ông nhưng Nhà nước nói có thể vô quy hoạch yêu cầu di dời mồ mả nên ông chấp nhận di dời”. Nếu đất tranh chấp là của ông D, bà H thì khi Nhà nước yêu cầu di dời mồ mả mà không có quyết định thu hồi đất và bồi thường thiệt hại thì các anh chị em của ông D, bà H lại không tranh chấp và không có khiếu nại là chưa phù hợp, ít nhất cũng phải xác định phần đất còn lại, tức diện tích đất đang tranh chấp sau khi Ủy ban nhân dân huyện thu hồi một phần làm đê bao là của mình như chôn trụ đá làm ranh, làm hàng rào, trồng cây hoặc yêu cầu Ủy ban Huyện cấp quyền sử dụng đất đối với phần đất còn lại, vì bà H thừa nhận bà H là người trực tiếp đứng đo đất và chỉ ranh khi Ủy ban nhân dân huyện H thu hồi đất của mẹ bà.

[6] Ông D, bà H đều thừa nhận phần đất tranh chấp thì ông D, bà H không có quản lý, sử dụng. Thực tế, khi chị Nguyễn t cây, làm hàng rào lưới B40 tại vị trí đất tranh chấp thì bà H cũng không tranh chấp và ngăn cản. Bà H cho rằng khi chị N chuyển nhượng đất, cũng như làm hàng rào, trồng dừa tại vị trí đất tranh chấp thì bà H có báo chính quyền địa phương nhưng bà H không có chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình.

[7] Theo Sơ đồ đo đạc thực tế ngày 02/8/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện H và tại Công văn số 1539/UBND-HC ngày 25/9/2023 của Ủy ban nhân dân huyện H cung cấp thông tin cho Tòa án có nội dung: “Thửa 1 diện tích 635,4m2 thuộc phần đất giao thông, tờ bản đồ số 32, xà T, theo bản đồ địa chính đang quản lý là đất giao thông do Nhà nước quản lý, không được xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Nghĩa là, phần đất bà H yêu cầu chị Nguyễn t2 lại không thuộc quyền sử dụng đất của bà H nên việc bà H yêu cầu chị Nguyễn di d tài sản trả lại phần đất có diện tích 635,4m2 thuộc một phần đất giao thông tờ bản đồ số 32, tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện H, tỉnh Đ là không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận là phù hợp với quy định tại các khoản 1, 4 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 157 của Luật Đất đai năm 2013. Trường hợp, phần đất tranh chấp có người sử dụng, khai thác gây cản trở cho việc bảo vệ an toàn công trình đường bộ là hành vi lấn, chiếm, sử dụng trái phép hành lang an toàn công trình theo quy định tại Điều 43 Luật Giao thông đường bộ và Điều 157 của Luật Đất đai năm 2013 là thuộc thẩm quyền của Chính quyền địa phương.

[8] Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng như tài sản có trên phần đất tranh chấp giữa chị N, bà Q thì các đương không tranh chấp nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[9] Đề nghị của Kiểm sát viên có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[10] Về chi phí xem xét thẩm định và định giá tài sản: 5.099.520đ (trong đó: chi phí định giá tài sản: 300.000đ, chi phí đo đạc: 4.799.520đ) bà Tô Thị H đã tạm ứng, do yêu cầu của bà H không được chấp nhận nên bà H phải chịu chi phí này. Bà H đã tạm ứng và chi xong là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 158, khoản 1 Điều 166 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[11] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Tô Thị H chịu 300.000đ đối với yêu cầu không được chấp nhận được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu 0004460 ngày 13/7/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 5, khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, khoản 1, 4 Điều 91, khoản 1 Điều 228, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 158, khoản 1 Điều 166 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 24 Điều 3, điểm b khoản 2 Điều 203, Điều 157 Luật Đất đai năm 2013; khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu của bà Tô Thị H. về việc yêu cầu chị Đỗ Thị Nguyễn di d1 tài sản trả lại phần đất có diện tích 635,4m2 thuộc một phần đất giao thông, tờ bản đồ số 32, đất tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện H, tỉnh Đ.

Kèm theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 02/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện H và Sơ đồ đo đạc hiện trạng đất tranh chấp ngày 02/8/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện H, tỉnh Đ.

2. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Bà Tô Thị H phải chịu 5.099.520 đồng, bà H đã tạm ứng và chi xong.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Tô Thị H chịu 300.000 đồng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu 0004460 ngày 13/7/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H.

4. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 31/01/2024). Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 04/2024/DS-ST

Số hiệu:04/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hồng Ngự - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về