TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 66/2024/DS-PT NGÀY 06/02/2024 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, RANH GIỚI GIỮA CÁC BẤT ĐỘNG SẢN LIỀN KỀ
Trong các ngày 30 tháng 01 và 06 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 265/2023/TLPT-DS ngày 03 tháng 10 năm 2023 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất, ranh giới giữa các bất động sản liền kề”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 22/2023/DS-ST ngày 18 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Ô Môn bị nguyên đơn kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 37/2023/QĐPT-DS ngày 08 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyện đơn: Ông Lê Văn B; sinh năm: 1978; địa chỉ: khu V L, phường L, quận Ô, thành phố Cần Thơ. (có mặt) Đại diện theo ủy quyền nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn E, sinh năm: 1968; địa chỉ: 1 Khu V, đường L, Phường T, quận B, thành phố Cần Thơ. (có mặt)
2. Bị đơn: Ông Lê Văn H, sinh năm: 1962; nơi cư trú: khu vực L, phường L, quận Ô, thành phố Cần Thơ. (có mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Phạm Thị Q, sinh năm 1956; (vắng mặt)
3.2. Bà Lê Thị Hà T, sinh năm 2000; (vắng mặt)
3.3. Bà Lê Thị N, sinh năm 1983; (vắng mặt)
3.4. Ông Lê Văn Ú, sinh năm 1984; (vắng mặt) Cùng địa chỉ: khu V L, phường L, quận Ô, thành phố Cần Thơ.
Đại diện theo ủy quyền của bà N, ông Ú: Ông Lê Văn B; địa chỉ: khu V L, phường L, quận Ô, thành phố Cần Thơ. (có mặt) Đại diện theo ủy quyền của ông Lê Văn ú, bà Lê Thị Hà T: ông Bùi Minh Đ; địa chỉ: số G N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt)
3.5. Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1959; (có mặt)
3.6. Anh Lê Hoàng L, sinh năm 1984; (vắng mặt)
3.7. Anh Lê Văn T1, sinh năm 1990; (vắng mặt) Cùng Địa chỉ: khu vực L, phường L, quận Ô, thành phố Cần Thơ.
Đại diện theo ủy quyền của bà D, anh T1: Ông Lê Văn H, sinh năm 1962; địa chỉ: khu V L, phường L, quận Ô, thành phố Cần Thơ. (có mặt)
3.8. Ông Võ Văn N1, sinh năm 1963; địa chỉ: tại khu V, phường L, quận Ô, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt)
3.9. Ông Lê Thành T2; địa chỉ: khu V, phường L, quận Ô, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt)
3.10. Bà Cao Thị H1, sinh năm 1958; địa chỉ: tại khu V, phường L, quận Ô, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt)
3.11. Ủy ban nhân dân quận Ô, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt)
4. Người kháng cáo: Ông Lê Văn B là nguyên đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 05/8/2011, đơn khởi kiện bổ sung ngày 07/12/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Văn E trình bày:
Ông Lê Văn B có quyền sử dụng đất tổng diện tích 4.438m2 gồm 02 thửa 746 diện tích 3.827m2 (2L) và thửa 711 diện tích 611m2 (gồm: 300m2 thổ cư + 311m2 LNK) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00450 do UBND huyện Ô cấp ngày 28/7/2003 mang tên Lê Văn B. Đất tọa lạc tại khu vực L, phường L, quận Ô, thành phố Cần Thơ. Nguồn gốc đất anh B được thừa kể từ cha ruột là ông Lê Phước N2 mất năm 2003 đề lại. Trong đó, thửa số 711 có ranh đất liền kề với thửa 712 của ông Lê Văn H. Trong quá trình sử dụng đất, ông H đã tự ý lấn chiếm qua phần đất của anh B. Theo đơn khởi kiện ngày 05/8/2011 diện tích lấn chiếm khoảng 78m2 (ngang mặt trước khoảng 01m, ngang mặt sau khoảng 5m x dài 26m).
Đơn khởi kiện bổ sung ngày 12/6/2013 yêu cầu diện tích là 283,7m2 (61,1m2 ODT và 222,6m2 CLN) thuộc thửa 711 (vị trí số 2 trích đo địa chính số 445 ngày 27/3/2012).
Đến nay, tại đơn khởi kiện bổ sung ngày 07/12/2022 nguyên đơn đồng ý công nhận cho bị đơn được ổn định quyền sử dụng đất A là 127,8m2; yêu cầu tháo dỡ trả lại diện tích đất là 220,3m2 gồm vị trí a = 13,6m2, c = 196,1m2, d = 10,6m2 theo Trích đo số 26/TTKTTNMT ngày 11/03/2021 của Trung tâm K.Cần Thơ.
Theo đơn yêu cầu phản tố và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Lê Văn H trình bày:
Cha mẹ ông H là ông Lê Văn S sinh năm 1920, mất năm 2007) và bà Trần Thị D1 (sinh năm 1927, mất năm 1999) có 05 người con gồm Lê Thành T2, Lê Phước N2 (mất), Lê Văn H, Lê Thị Kim C và Lê Văn T3. Khoảng năm 1980, cha mẹ là ông S và bà D1 có cho ông Lê Văn H phần đất tại các thửa 711+712+1801, tờ bản đồ số 04, đất tọa lạc tại khu vực L, phường L, quận Ô, thành phố Cần Thơ, chung dây đất với ông Lê Phước N2. Phần đất này ông H sử dụng từ năm 1980 đến nay.
Năm 2000, ông H cất nhà có nói với anh ruột là ông Lê Phước N2 và xác định ranh giới, anh em thống nhất nên ông xây dựng lại nhà, làm hàng rào ranh đất giữa hai bên và sử dụng ổn định không ai tranh chấp từ năm 1980 đến nay trên 40 năm. Năm 2003 anh ông N2 mất, con ruột ông N2 là ông Lê Văn B là người thừa kế làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã khai trùm lên quyền sử dụng đất diện tích 283,7m2 (99m2 ODT và 184,7m2 CLN) thuộc thửa 711+712+1801, tờ bản đồ số 04, theo trích đo địa chính số 445 ngày 27/3/2012 của ông H đang quản lý sử dụng thì ông H2 không hay biết. Sau khi ông B đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã khởi kiện đòi ông H trả phần đất nêu trên thì ông H không đồng ý. Qua nhiều lần đo đạc, ông B lại xác định lấn qua đất ông H càng nhiều.
Nay ông H có yêu cầu phản tố, yêu cầu Tòa án buộc anh B trả cho ông H quyền sử dụng diện tích đất thực tế tại vị trí A diện tích 348,1m2 (99m2 ODT và 184,7m2 CLN), theo trích đo địa chính số 445 ngày 27/3/2012, đo đạc thực tế hiện nay tại vị trí A là 348,lm2 (ODT, CLN) (gồm vị trí a, c, d) theo Trích đo số 26 ngày 11/03/2021 của Trung tâm K.Cần Thơ, đất thuộc thửa 711+712+1801, tờ bản đồ số 04, đất tọa lạc tại khu vực L, phường L, quận Ô, thành phố Cần Thơ để ổn định và tách giấy đất và hiện ông H có căn nhà trên đất. Đồng thời yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00450, cấp ngày 28/7/2003 do anh Lê Văn B đứng tên.
Ông Lê Thành T2 trình bày: Cha mẹ ông là ông Lê Văn S và bà Trần Thị D1 có 05 người con gồm Lê Thành T2, Lê Phước N2 (mất), Lê Văn H, Lê Thị Kim C và Lê Văn T3. Ông T2 biết phần đất tranh chấp khi cha mẹ còn sống chưa cho ai. Phần đất này do ông H quản lý sử dụng từ trước đến nay, ban đầu nhà lá nhỏ sau đó xây cất thêm. Ông không có ý kiến gì, không yêu cầu gì liên quan đến thửa đất tranh chấp giữa ông bảo và ông H.
Ông T3, bà C trình bày: Ông bà là con ông S và bà D1. Khi còn sống cha mẹ ở cùng ông H trên phần đất hiện nay ông H đang sinh sống. Các ông biết cha mẹ có cho đất thửa 711,712,1801 cho H và ông N2 nhưng diện tích cụ thể như thế nào thì các ông bà không biết rõ. Riêng các ông bà đã nhận phần đất của mình, hiện nay không có ý kiến gì, không yêu cầu gì liên quan đến thửa đất tranh chấp giữa ông B và ông H Ông Lê Văn N3 trình bày: Vào ngày 22/9/1994 ông N3 có chuyển nhượng của ông Lê Văn S và bà Trần Thị D1 cùng ngụ khu vực L, phường T (nay là khu vực L, phường L), quận Ô, thành phố Cần Thơ diện tích đất ngang 7m x dài 13m (thẳng xuống sông) tại vị trí C theo trích đo, với giá 4,5 chỉ vàng 24K. Việc mua bán có làm giấy tay, có chữ ký của ông hường, ông T2 và nhiều người làm chứng. Ông N3 đã giao đủ vàng và nhận đất sử dụng từ đó đến nay không ai tranh chấp. Nay ông N3 yêu cầu tự thỏa thuận với các bên liên quan, không yêu cầu độc lập trong vụ án và không ý kiến gì về tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn.
Ông Lê Văn Ú trình bày: Năm 2018 do không có chỗ ở ổn định nên ông Ú cất nhà tạm cặp mé sông B Tăng diện tích ngang 8m x dài 6m, loại nhà tiền chế trên thửa 711, tờ bản đồ số 04, đất tọa lạc tại khu vực L, phường L, quận Ô, thành phố Cần Thơ, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00450 do UBND huyện Ô, thành phố Cần Thơ (cũ) cấp ngày 28/7/2003 đứng tên ông Lê Văn B, nhà tại vị trí B theo trích đo. Diện tích đất cất là thuộc đất của ông B và khi cất nhà được ông B đồng ý, không thuộc diện tích đất tranh chấp giữa ông B và ông H. Ông Ú không có yêu cầu độc gì lập trong vụ án, yêu cầu tự thỏa thuận với ông B.
Bà Phạm Thị Q, Lê Thị Thu H3, trình bày: Bà Q là mẹ ruột ông B, chị H3 là con gái ông B. Ông B là người sử dụng hợp pháp phần đất có diện tích 4.438m2 gồm thửa số 746, 711, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00450 do UBND huyện Ô, thành phố Cần Thơ (cũ) cấp ngày 28/7/2003 đứng tên ông Lê Văn B. Do thửa 711 liền kề với thửa 712 của ông Lê Văn H, trong quá trình sử dụng ông H tự ý lấn ranh diện tích 283,7m2 (trong đó có 61,1m2 ODT và 222,6m2 CLN) tại vị trí số 2 theo trích đo địa chính số 445 ngày 27/3/2012. Do vậy thống nhất theo yêu cầu của ông B, không có yêu cầu độc lập trong vụ án.
Ông Trần Văn M - trưởng khu vực L: Ông Lê Văn S và bà Trần Thị D1 có 5 người con như ông T2 trình bày. Khi còn sống ông S và bà V ở cùng ông H trong căn nhà hiện ông H đang quản lý sử dụng, sau khi ông S1 và bà D1 mất thì ông H tiếp tục quản lý sử dụng đến nay. Việc ông S và bà D1 cho đất các con thế nào thì ông không biết.
Ông Nguyễn Văn H4 trình bày: Ông Hà sinh ra và lớn lên, làm ăn sinh sống tại địa phương từ trước đến nay. Ông không có tranh chấp, mâu thuẫn gì giữa các bên đương sự trong vụ án. ông Lê Văn B gọi ông H4 là chú họ; ông H, ông N2 với ông H4 bà con cô ông cậu ruột.
Ông H4 biết nguồn gốc đất tranh chấp là do cha mẹ của ông H, ông N2 là ông Lê Văn S (mất 2007) và bà Trần Thị D1 (mất 1999) khai phá, cùng dây với với mẹ của ông là bà Trần Thị T4 (mất năm 1987). Sau đó ông S cho đất lại cho các con, giấy tờ như thế nào thì ông H4 không rõ, nhưng thực tế thì ông H4 biết phần đất phía sau nhà ông B đang tranh chấp là cái mương lạn, trước đây bà D1 trồng lá dứa làm bánh đề bán, sau khi bà D1 mất thì ông H cải tạo nuôi cá đến nay.
Phần đất tranh chấp phía sau nhà ông B giáp ranh đất với ông H4, ông H4 có làm hàng rào trụ đá lưới B40, ranh đất từ trước lộ đến hết mí nhà ông B do ông H4 và ông B xác định ranh, phía sau nhà ông B do ông H4 và ông H xác định ranh. Các bên không có tranh chấp gì.
Ông H4 biết ông H cất lại căn nhà hiện nay thì giữa ông N2 và ông H thuận thảo, chỉ ranh không tranh chấp gì. Khi ông N2 mất thì ông B và ông H phát sinh tranh chấp khoảng 6,7 nay. Vì là hàng xóm bà con ruột thịt, ông cũng muốn gì đình ngồi lại thỏa thuận với nhau.
Do hòa giải không thành nên vụ án được đưa ra xét xử công khai.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 22/2023/DS - ST ngày 18 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Ô Môn đã tuyên xử Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn về việc tranh chấp quyền sử dụng đất bị lấn chiếm. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn B đối với ông Lê Văn H, về việc yêu cầu buộc ông H và thành viên hộ gia đình gồm bà Nguyễn Thị D, anh Lê Hoàng L, anh Lê Văn T1 phải tháo dỡ trả lại cho nguyên đơn diện tích 220,3m2 gồm vị trí a = 13,6m2, c = 196,1m2, d = 10.6m2 theo Trích đo số 26.
2. Công nhận ông Lê Văn h được quyền sử dụng đất diện tích là 348,1m2 (ODT, CLN) tại vị trí A (trong đó a = 13,6m2, c = 196,1m2, d = 10.6m2 ) theo Trích đo số 26/TTKTTNMT ngày 11/3/2021 của Trung tâm Kỹ thuật tài nguyên và môi trường thành phố C (có đính kèm), là một phần đất thuộc thửa đất số 711, tờ bản đồ số 2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00450 do UBND huyện Ô, thành phố Cần Thơ (cũ) cấp ngày 28/7/2003 đứng tên hộ ông Lê Văn B.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Lê Văn H đối với ông Lê Văn B về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00450 do UBND huyện Ô, thành phố Cần Thơ (cũ) cấp ngày 28/7/2003 đứng tên hộ ông Lê Văn B.
Các đương sự có trách nhiệm liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
Kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền căn cứ Bản án của Tòa án cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các bên đương sự theo quy định pháp luật.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về nghĩa vụ chịu chi phí đo đạc, thẩm định, án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự.
Không đồng ý với bản án nêu trên, nguyên đơn có đơn kháng cáo Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn; Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và không cung cấp thêm chứng cứ mới Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Về nội dung tranh chấp:
Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả lại phần đất lấn chiếm diện tích lấn chiếm là 348,1m2 thuộc một phần thửa 711 do UBND huyện Ô (cũ) cấp ngày 28/7/2003 cho ông Lê Văn B. Nguồn gốc đất nhận thừa kể từ cha là ông Lê Phước N2. Bị đơn phản tố cho rằng phần đất gia đình bị đơn đang sử dụng có nguồn gốc từ cha mẹ cho là ông Lê Văn S và bà Trần Thị D1 sử dụng từ trước đến nay. Phần đất này giáp ranh với thửa 712 của ông H sử dụng từ lâu, nhưng phía ông N2, cha của ông Bảo kê k bao trùm lên phần đất bị đơn sử dụng nên không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Xét về nguồn gốc đất, các đương sự thống nhất xác định phần đất tranh chấp diện tích 348,1m2 tại vị trí A theo bản trích đo địa chính số 26 ngày 11/3/2021 của TTKTTNMT thành phố C, đất thuộc một phần thửa 711, TBĐ số 4, theo GCNQSD đất số 002724, do UBND huyện Ô (cũ) cấp ngày 31/11/1992 cho ông Lê Phước N2 (ông Lê Văn B nhận thừa kế năm 2003 và được cấp đổi lại GCNQSD đất 00450 ngày 28/7/2003) có nguồn gốc trước đây là của ông Lê Văn S và bà Trần Thị D1 tạo lập. Theo lời khai của ông Lê Thành T2 và ông Trần Văn M là T5 khu vực L khi còn sống ông S, bà D1 ở trong căn nhà hiện nay Ông H đang quản lý, sử dụng và ở cùng ông H. Khi ông S, bà D1 mất thì ông H quản lý sử dụng. Tại biên bản lấy lời khai ông Nguyễn Văn H4 cũng xác định “phần đất tranh chấp phía sau nhà ông B giáp ranh với đất Ông H4, ông H4 có làm hàng rào trụ đá lưới B40, ranh từ trước lộ đến hết mí nhà ông B do ông H4 và ông B xác định ranh, phía sau nhà ông B do ông H4 và ông H xác định ranh Các bên không có tranh chấp gì.... Nguồn gốc đất ông được biết là của cha mẹ ông H cho ông H quản lý sử dụng khoảng trên 40 năm nay”. Quá trình giải quyết và tại phiên tòa nguyên đơn cũng thừa nhận đất gốc là của ông s bà D1 và trên đất có căn nhà của ông S bà D1 sinh sống từ trước. Các tài liệu cũng như lời trình bày của các đương sự trùng khớp với lời khai của bị đơn về nguồn gốc cũng như quá trình sử dụng đất. Phần đất tranh chấp được ông S, bà D1 và ông H sử dụng ổn định. Khi còn sống ông S có cho đất ông N2 và ông H, ông B cho rằng cha của ông là ông N2 được cho hết phần đất tại thửa 711, ông H cho rằng ông S chỉ cho ông N2 một nền nhà chứ không cho hết thửa đất, phần đất còn lại tại thửa 711 ông S vẫn sử dụng, sau khi ông S mất thì ông H tiếp tục quản lý, sử dụng. Trên thực tế thửa đất 711 vẫn có căn nhà của ông S, bà D1 sử dụng, đến năm 2000 thì ông H sửa chữa lại kiên cố, thời điểm đó ông N2 vẫn còn sống và không có ý kiến phản đối.
Theo trích lục hồ sơ địa chính của Văn phòng Đ1 cung cấp, ngày 27/5/1991, ông Lê Phước N2 có đơn xin đăng ký quyền sử dụng đối với phần đất thuộc thửa 711, 746 và được cấp GCNQSD đất ngày 31/11/1992 đối với hai thửa đất trên. Năm 2003 ông N2 mất, ông B đứng ra họp gia đình và khai nhận di sản thừa kế QSD đất của ông N2. Tại Công văn số 1998 ngày 08/9/2022 của UBND quận Ô có nội dung xác định về thủ tục nhận thừa kế và cấp GCNQSD đất cho ông Lê Văn B thửa 711 và 746, không có phúc đáp về trình tự thủ tục cấp GCNQSD đất năm 1992 cho Phước N2. Phần đất thửa 711 do ông S, bà D1 tạo lập và trực tiếp sử dụng, sau đó là ông H quản lý sử dụng, xây dựng nhà ở ổn định cho đến hôm nay. Việc ông Lê Phước N2 đứng tên trên sổ mục kê sử dụng toàn bộ diện tích thửa 711 là không chính xác, đồng thời khi ông N2 kê khai đăng ký quyền sử dụng đất đất năm 1991 thì trên phần đất tại thửa 711 có nhà của Lê Văn S và gia đình bị đơn đang sinh sống, trực tiếp sử dụng đất, nhưng ông N2 lại kê khai trực tiếp sử dụng toàn bộ phần đất thửa 711 để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất, trong đó có nhà của bị đơn không đúng với quy định của pháp luật đất đai thời điểm đăng ký. Do đó, tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là phù hợp. Nguyên đơn kháng cáo nhưng không cung cấp thêm chứng cứ mới nên không có cơ sở chấp nhận.
Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2023/DS-ST ngày 18 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn: Theo đơn kháng cáo và lời trình bày của đại diện ủy quyền nguyên đơn xác định, nguyên đơn yêu cầu Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cụ thể: “yêu cầu bị đơn trả lại cho nguyên đơn phần đất có diện tích 220,3m2, theo bản trích đo địa chính số 26/TTKTTNMT ngày 11/3/2021 của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố C (gọi tắt là Bản trích đo số 26), cụ thể tại vị trí a = 13,6m2, c = 196,1m2 và d = 10,6m2. Đối với phần đất diện tích 127,8m2 tại vị trí A có căn nhà bị đơn đang sử dụng nên tiếp tục ổn định cho bị đơn ở tại vị trí này và yêu cầu bị đơn trả lại giá trị quyền sử dụng đất [2] Nhận thấy: Xét về nguồn gốc đất tranh chấp, quá trình giải quyết vụ án các bên đều thừa nhận nguồn gốc đất là do ông bà, cha mẹ để lại nhưng không có lập văn bản hay giấy tờ gì thể hiện tặng cho quyền sử dụng đất. Thửa đất này được thể hiện trong sổ mục kê do cha của nguyên đơn - ông Lê Phước N2 đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1992 đến năm 2003 nguyên đơn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do được nhận thừa kế.
[3] Về trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B. Theo công văn 933/UBND ngày 17/5/2023 của UBND quận Ô xác định, hồ sơ khai nhận di sản thừa kế của ông Lê Văn B không thể hiện ý kiến của bà Phạm Thị Q (mẹ ông B) là chưa đúng quy định của pháp luật về thừa kế. Tuy nhiên, theo hồ sơ thể hiện có biên bản họp gia đình về việc các đồng thừa kế thống nhất giao cho ông B quyền sử dụng đất do ông N2 để lại và cho đến nay các đồng thừa kế không có ý kiến hay tranh chấp gì về di sản của ông N2 hoặc có yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông B. Trong vụ án này bà Q cũng không có yêu cầu độc lập. Do đó, trường hợp có tranh chấp về di sản thừa kế giữa bà Q và ông B sẽ giải quyết bằng vụ kiện khác khi có yêu cầu. Như vậy, yêu cầu phản tố về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bị đơn là không có cơ sở chấp nhận;
[4] Xét về diện tích và hình thể đất tranh chấp: theo Bản trích đo địa chính số 26 diện tích đất tranh chấp là 348,1m2 tại các vị trí a = 13,6m2, c = 196,1m2 và d = 10,6m2, A = 127,8m2. Đối chiếu với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00450 do UBND huyện Ô, thành phố Cần Thơ (cũ) cấp ngày 28/7/2003 đứng tên hộ ông Lê Văn B thì nguyên đơn được quyền sử dụng thửa 711 với diện tích 611m2 đất, nhưng thực tế sử dụng 193,7m2, như vậy là còn thiếu 417,3m2 đất so với giấy chứng nhận được cấp. Ngược lại, đối với bị đơn, theo sổ mục kê thể hiện bị đơn đăng ký 341m2 nhưng thực tế sử dụng 475.7m2 nhiều hơn 134.7m2. Như vậy, nếu tính cả phần diện tích đất tranh chấp thì đất của nguyên đơn vẫn thiếu nhưng phù hợp với hình thể đất được cấp giấy chứng nhận.
[5] Về mặt pháp lý: Như đã nhận định trên, nguyên đơn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 2003 do nhận thừa kế từ ông N2. Ông N2 có đơn đăng ký quyền sử dụng đất năm 1991 đến năm 1992 được ghi vào sổ mục kê, sổ đăng ký ruộng đất với nội dung nguồn gốc: cha cho và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 02 thửa 746 diện tích 3827m2 và 711 diện tích 611m2. Cùng thời điểm này ông S và bà D1 cũng tiến hành đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất ông bà sử dụng. Như vậy, mặc dù không có văn bản gì chứng minh cha cho nhưng Ông S và bà D1 không có ý kiến gì về việc ông N2 được cấp giấy chứng nhận và cho, đến nay chưa có văn bản hay quyết định nào về việc thu hồi hay hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông N2 nên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này có giá trị pháp lý. Bị đơn cho rằng không biết việc ông N2 cũng như nguyên đơn được cấp giấy chứng nhận là chưa chính xác. Bởi theo lời trình bày của bị đơn tại phiên tòa ngày 29/9/2017 bị đơn biết ông N2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng do bận làm ăn và cũng là anh em nên không tranh chấp. Lời trình bày này của bị đơn thể hiện bị đơn đã mặc nhiên thừa nhận quyền sử dụng đất của ông N2. Mặt khác, theo hồ sơ thể hiện, thửa đất 712 (liền kề thửa 711) ông H kê khai trong sổ mục kê lập năm 1989. Căn cứ vào công văn số 1568/BTNMT - ĐKTKĐĐ ngày 25/04/2007 của Bộ T6 quy định số mục kê đất cũng không được coi là một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật đất đai năm 2003, nay là khoản 1 Điều 100 của Luật đất đai năm 2013. Ngoài ra, tại khoản 1 Điều 18 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ có quy định các giấy tờ khác về quyền sử dụng đất quy định tại điểm g khoản 1 Điều 100 Luật đất đai năm 2013 bao gồm: Sổ mục kê, sổ kiến điền lập trước ngày 18/12/1980. Thửa đất 712 được kê khai trong sổ mục kê lập năm 1989 nên sổ mục kê này chưa được xem là các loại giấy tờ khác về quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 100 của Luật đất đai năm 2013;
[6] Về quá trình sử dụng đất tranh chấp: Ông H cho rằng ông đã sử dụng phần đất này trong thời gian dài, ổn định không tranh chấp. Tuy nhiên, ông cũng thừa nhận đất có nguồn gốc từ cha mẹ cho và ông là người sống cùng cha mẹ, đồng thời quá trình giải quyết vụ kiện ông chưa có chứng cứ nào thể hiện cha mẹ cho ông quyền sử dụng đất nêu trên cũng như cho vào thời gian nào. Do đó, thực tế người sử dụng đất trước đây có ông S và bà D1, đến khi ông S, bà D1 mất (ông S mất năm 2007, bà D1 mất năm 1999) thì ông H mới là người trực tiếp quản lý, sử dụng. Năm 2010 ông H xây dựng mới lại căn nhà ông B cho rằng ông H không xây trên nền đất căn nhà cũ và có đề nghị ngừng xây dựng nên phát sinh tranh chấp cho đến nay. Trong khi đó, ông N2 (cha nguyên đơn) đã ở và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1992 đến năm 2003 nguyên đơn được cấp giấy chứng nhận do nhận thừa kế và tiếp tục sử dụng đất cho đến nay. Các anh em ông H xác định ông H được cha mẹ cho đất nhưng không biết diện tích, vị trí cụ thể như thế nào. Như vậy, lời trình bày của bị đơn về việc sử dụng đất ổn định, lâu dài không tranh chấp là chưa chính xác;
[7] Từ những cơ sở trên cho thấy, phần diện tích đất tranh chấp về mặt pháp lý thuộc quyền sử dụng của nguyên đơn và cho đến nay chưa có văn bản hay quyết định nào thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn. Do đó, theo quy định của pháp luật đất đai thì người sử dụng đất được Nhà nước bảo hộ khi bị xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của mình. Do vậy, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu đòi lại quyền sử dụng đất đối với bị đơn là có căn cứ nên yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn về việc chấp nhận yêu cầu khởi kiện là có cơ sở chấp nhận.
Tại phiên tòa, đại diện của nguyên đơn xác định yêu cầu bị đơn trả lại phần đất tại các vị trí a, c, d theo bản trích đo số 26/TTKTTNMT của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố c ngày 11/3/2021. Đối với đất tại vị trí A do có căn nhà bị đơn đang sử dụng nên ổn định và yêu cầu bị đơn trả giá trị tương đương 1.500.000đồng/m2. Xét thấy, các vị trí a, d là phần mái tole, nhà bếp tạm mới xây dựng sau khi đã có tranh chấp và việc tháo dở không làm ảnh hưởng đến kết cấu căn nhà chính. Do đó, cần buộc bị đơn tháo dở những công trình này trả lại đất cho nguyên đơn. Đối với phần vị trí A có diện tích 127,8m2, theo chứng thư thẩm định giá đất tại vị trí này có giá 3.950.000đồng/m2 nhưng phía nguyên đơn yêu cầu trả giá trị tương đương 1.500.000đồng/m2 là có lợi cho bị đơn nên ghi nhận. Như vậy, phần giá trị bị đơn có trách nhiệm hoàn trả lại cho nguyên đơn là 127,8m2 x 1.500.000 đồng = 191.700.000đồng;
Đối với cây trồng trên đất: quá trình giải quyết và tại phiên tòa nguyên đơn, bị đơn đều thừa nhận là của ông S, bà D1 trồng nên không thuộc quyền sử dụng của bị đơn. Riêng đối với các loại mít, dừa và xoài do bị đơn trồng khi bị đơn giao trả lại đất thì nguyên đơn là người hưởng lợi nên nguyên đơn có trách nhiệm hoàn trả lại giá trị cho bị đơn, cụ thể: 02 cây mít, 02 cây dừa và 01 cây xoài có tổng giá trị 2.263.400 đồng.
[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ là chưa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không chấp nhận.
[9] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn ông Lê Văn H phải chịu. Tuy nhiên, ông H thuộc trường hợp người cao tuổi nên được miễn nộp án phí theo quy định. Ông Lê Văn B được nhận lại 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 12, Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn - ông Lê Văn B.
1. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 22/2023/DS - ST ngày 18/05/2023 của Tòa án nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.
1.1 Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Buộc ông Lê Văn H trả lại cho ông Lê Văn B quyền sử dụng đất với diện tích 220,3m2, tại vị trí a = 13,6m2, c= 196,1m2 và d= 10,6m2 theo bản trích đo địa chính số 26/TTKTTNMT ngày 11/3/2021 của Trung tâm kỹ thuật tài nguyên và môi trường thành phố C. Ông H có trách nhiệm tháo dỡ phần nhà bếp và mái tole tạm trên phần đất tại vị trí a, d giao trả lại đất cho nguyên đơn.
- Ông Lê Văn H được quyền sử dụng phần đất tại vị trí A diện tích 127,8m2 theo bản trích đo địa chính số 26/TTKTTNMT ngày 11/3/2021 của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và môi trường thành phố C. Ông H có trách nhiệm trả giá trị đất cho ông B tương đương số tiền 191.700.000 đồng.
- Ông Lê Văn B có trách nhiệm bồi hoàn giá trị cây trồng cho ông Lê Văn H với số tiền 2.263.000 đồng - Sau khi hoàn thành xong nghĩa vụ thanh toán tiền cho nguyên đơn, ông Lê Văn H được quyền đăng ký quyền sử dụng tại Cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất có thẩm quyền đối với phần đất tại vị trí A diện tích 127,8m2 theo bản trích đo địa chính số 26/TTKTTNMT ngày 11/3/2021 của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố C.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
1.2 Bác yêu cầu phản tố của bị đơn về việc yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00450 do UBND huyện Ô, thành phố Cần Thơ (cũ) cấp ngày 28/7/2003 đứng tên hộ ông Lê Văn B.
1.3 Bác yêu cầu phản tố của ông Lê Văn H về việc yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất diện tích 348,1m2 (ODT, CLN) tại các vị trí A, a, c, d theo bản trích đo địa chính số 26/TTKTTNMT ngày 11/3/2021 của Trung tâm kỹ thuật tài nguyên và môi trường thành phố C.
1.4 Về chi phí đo đạc, thẩm định: 17.199.000 đồng ông Lê Văn H phải chịu. Ông Lê Văn B đã nộp tạm ứng số tiền này, do đó ông H có trách nhiệm hoàn lại số tiền 17.199.000 đồng.
2. Về chi phí tố tụng: Chi phí thẩm định giá thị trường theo hợp đồng dịch vụ là 12.000.000 đồng, nguyên đơn đã nộp đủ và đã chi xong.
3. Về án phí”:
3.1 Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lê Văn H được miễn nộp án phí theo quy định tại Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Ông H được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.568.000 đồng theo biên lai thu số 003844 ngày 04/6/2013 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ Ông Lê Văn B được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp 200.000 đồng theo biên lai thu số 006779 ngày 04/10/2011 và số tiền 1.518.000 đồng theo biên lai thu số 003876 ngày 25/6/2013 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.
3.2 Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Lê Văn H được miễn nộp án phí theo quy định tại Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Ông Lê Văn B: Không phải chịu. Ông B được nhận lại 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003622 ngày 30/5/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, ranh giới giữa các bất động sản liền kề số 66/2024/DS-PT
Số hiệu: | 66/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 06/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về