TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 600/2023/DS-PT NGÀY 29/08/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 29 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai, vụ án thụ lý số: 280/2023/TLPT-DS ngày 19 tháng 5 năm 2023 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2022/DS-ST ngày 09 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1743/2023/QĐ-PT ngày 10 tháng 7 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 136/2023/QĐ-PT ngày 25 tháng 7 năm 2023 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1967/2023/QĐ-PT ngày 07 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Lý Văn H, sinh năm 1936 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số 1/1, tổ 17, khu phố 3, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Từ Ngọc C, sinh năm 1978 (Theo Văn bản ủy quyền ngày 12/6/2017) (vắng mặt);
Địa chỉ: Số 16/1, đường H1, phường Q, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai.
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1957 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số 15/1, tổ 18, khu phố 3, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc H2, sinh năm 1983 (Theo Văn bản ủy quyền ngày 23/5/2016) (có mặt);
Địa chỉ: Số 260/2, đường V, khu phố 2, phường T, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Trần Minh S, sinh năm 1979 (vắng mặt);
3.2. Ông Trần Minh T1, sinh năm 1982 (vắng mặt);
3.3. Ông Trần Minh C1, sinh năm 1984 (vắng mặt);
3.4. Cháu Trần Mỹ H3, sinh năm 2011;
Người đại diện hợp pháp của cháu H3: Ông Trần Minh C1 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số 15/1, tổ 18, khu phố 3, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền của ông S, ông T1, ông C1: Ông Nguyễn Ngọc H2, sinh năm 1983 (có mặt);
Địa chỉ: Số 260/2, đường V, khu phố 2, phường T, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai.
3.5. Bà Lý Mỹ H2, sinh năm 1963 (xin vắng mặt);
3.6. Bà Lý Mỹ H4, sinh năm 1964 (xin vắng mặt);
3.7. Bà Lý Mỹ H5, sinh năm 1965 (xin vắng mặt);
3.8. Bà Lý Mỹ H6, sinh năm 1967 (xin vắng mặt);
3.9. Bà Lý Mỹ H7, sinh năm 1968 (xin vắng mặt);
3.10. Bà Lý Mỹ H8, sinh năm 1970 (xin vắng mặt);
3.11. Bà Lý Mỹ H9, sinh năm 1972 (xin vắng mặt);
3.12. Ông Lý Đức H10, sinh năm 1966 (xin vắng mặt);
3.13. Bà Lý Bích H11, sinh năm 1974 (xin vắng mặt);
3.14. Ông Lý Đức H12, sinh năm 1975 (xin vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số 1/1, tổ 17, khu phố 3, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền của bà H2, bà H4, bà H5, bà H6, bà H7, bà H8, bà H9, ông H10, bà H11, ông H12: Ông Từ Ngọc C, sinh năm 1978 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số 16/1, đường H1, phường Q, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai.
3.15. Ủy ban nhân dân thành phố B1, tỉnh Đồng Nai;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Võ Phương T2- Phó trưởng Phòng, Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố B1 (Theo Văn bản ủy quyền số 2540/UBD-NC ngày 09/3/2020) (vắng mặt).
3.16. Bà Lương Thị Thùy L, sinh năm 1980 (xin vắng mặt);
3.17. Cháu Trần Xuân M1, sinh năm 2011 (xin vắng mặt);
3.18. Cháu Trần Hiểu Đ, sinh năm 2013 (xin vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số 2/5B, tổ 7, khu phố 3, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện hợp pháp của cháu M1, cháu Đ: Ông Trần Minh T1, sinh năm 1982 (vắng mặt) và bà Lương Thị Thùy L, sinh năm 1980 (vắng mặt).
- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị M là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 20/10/2015, trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Từ Ngọc C trình bày:
Ông Lý Văn H là chủ sử dụng diện tích đất 1.499,3m2, thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai. Nguồn gốc đất là do cụ Lý D(cha ruột ông H) cho ông H sử dụng ổn định từ năm 1965 cho đến nay, được Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) thành phố B1 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 781870 ngày 30/11/2010. Năm 2015, ông H và hộ liền kề là Bà Nguyễn Thị M xảy ra tranh chấp ranh đất. Ông H xác định ông khởi kiện yêu cầu bà M hoàn trả lại diện tích đất 146,7m2, thuộc thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai được giới hạn bởi các mốc 15, 26, 25, 24, 23, 15, theo Bản đồ hiện trạng khu đất số 3297/2022 ngày 18/5/2022 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai - Chi nhánh Biên Hòa phát hành.
Tại Bản án số 06/2017/DS-ST ngày 19/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã xét xử sơ thẩm lần thứ nhất, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H; chấp nhận yêu cầu phản tố của bà M, công nhận phần đất tranh chấp là của bà M và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 781870 do UBND thành phố B1 đã cấp cho ông Lý Văn H vào ngày 30/11/2010.
Sau khi xét xử sơ thẩm lần thứ nhất, ông Lý Văn H kháng cáo đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Tại Bản án số 272/2018/DS-PT ngày 14/9/2018 Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã hủy Bản án sơ thẩm giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.
Hiện nay phần diện tích đất tranh chấp này đã có Quyết định thu hồi, bồi thường, hỗ trợ của UBND thành phố B1 để thực hiện dự án Công viên và kè sông Đồng Nai, thành phố B1 (từ cầu Hóa An đến giáp ranh huyện Vĩnh Cửu).
Tuy nhiên, ông H chưa nhận tiền bồi thường, hỗ trợ do một phần diện tích đất bị thu hồi đang có tranh chấp với bà M.
Tại Đơn phản tố và quá trình tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn, ông Nguyễn Ngọc H2 trình bày:
Bà Nguyễn Thị M là chủ sử dụng đất diện tích 1.766,4m2, thuộc thửa đất số 143, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai, được UBND thành phố B1 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 034731 ngày 01/11/2010.
Nguồn gốc đất: Theo giấy xác nhận ngày 26/3/1942, cụ Trần Văn H13 và cụ Trần Thị N cho cụ Trần Văn X(cha ruột ông H14, ông H14 là chồng bà M) diện tích đất 5.706m2. Sau đó cụ X cho lại ông H14, bà M, trong đó có phần diện tích đất 1.766,4m2, thửa đất số 143, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai. Năm 1999, ông H14 đi đăng ký kê khai quyền sử dụng đất, năm 2001 ông H14 chết. Ngày 01/11/2010, bà M được UBND thành phố B1 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 034731.
Theo ý kiến của bà M thì ranh giới đất giữa gia đình bà M và gia đình ông H đã có từ trước. Khoảng năm 1965, hai gia đình xác định, cắm mốc ranh, dựng hàng rào giáp ranh giữa 02 thửa đất, ranh mốc không thay đổi từ đó đến nay. Bà M cũng xây dựng một số tài sản trên đất như nhà cấp 4, hàng rào, bờ kè trong quá trình quản lý, sử dụng đất.
Năm 2001, gia đình bà M xây lại tường rào mới, gia đình ông H biết, đồng ý và không có ý kiến gì về mốc ranh giữa 02 bên. Từ khi được cho đất, gia đình bà M sử dụng ổn định, việc này có các hộ dân sinh sống lân cận như bà Trần Thị Đ1, ông Trần Văn M2, bà Lê Thị H15, ông Ôn Văn L1, ông Phạm Văn T3, bà Lưu Thị N1 xác nhận tại Biên bản hòa giải ngày 06/6/2015. Bản vẽ theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thể hiện đúng mốc ranh do hai bên thỏa thuận từ năm 2001 nên các bên tranh chấp diện tích đất 146,7m2, thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai được giới hạn bởi các mốc 15, 26, 25, 24, 23, 15 theo Bản đồ hiện trạng khu đất số 3297/2022 ngày 18/5/2022 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai - Chi nhánh Biên Hòa phát hành.
Bà M không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông H, đồng thời bà M có đơn yêu cầu phản tố, yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 781870 được UBND thành phố B1 cấp cho ông Lý Văn H ngày 30/11/2010, và yêu cầu công nhận diện tích đất 146,7m2 thuộc thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà M.
Tại phiên tòa ông H2 trình bày hiện nay căn nhà cấp 4 nằm giáp ranh phần đất tranh chấp không còn cho bà Diệp L2 thuê, anh Diệp Đức T4 và chị Huỳnh Thanh T5 cũng không còn sinh sống tại căn nhà trên nên đề nghị Tòa án không đưa bà L2, anh T4, chị T5 tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Hiện nay căn nhà trên do ông Trần Minh T1, ông Trần Minh C1 (con ruột của bà M) và cháu Trần Mỹ H3 (con gái ông C1) ở.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lý Mỹ H2, bà Lý Mỹ H4, bà Lý Mỹ H5, bà Lý Mỹ H6, bà Lý Mỹ H7, bà Lý Mỹ H8, bà Lý Mỹ H9, ông Lý Đức H10, bà Lý Bích H11, ông Lý Đức H12 do ông Từ Ngọc C thống nhất trình bày:
Các ông bà là con của ông Lý Văn H, các ông bà thống nhất với lời trình bày và yêu cầu khởi kiện của ông Lý Văn H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Minh S, ông Trần Minh T1, ông Trần Minh C1 do ông Nguyễn Ngọc H2 đại diện trình bày:
Các ông là con ruột của Bà Nguyễn Thị M, các ông thống nhất với trình bày và yêu cầu phản tố của bà M.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lương Thị Thùy L trình bày: Bà là vợ của ông Trần Minh T1, bà và các con là Trần Xuân M1, sinh năm 2011 và cháu Trần Hiểu Đ, sinh năm 2013 đang sinh sống cùng gia đình chồng tại địa chỉ: 2/5B, tổ 7, khu phố 3, phường B, thành phố B1, bà là con dâu nên không biết rõ việc tranh chấp của hai bên gia đình, bà không có ý kiến gì đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt bà trong quá trình tố tụng tại Tòa án các cấp.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND thành phố B1 do ông Võ Phương T2 trình bày:
Về nguồn gốc đất và quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Theo hồ sơ do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai - Chi nhánh Biên Hòa cung cấp, thể hiện thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1 do ông Lý Văn H nhận thừa kế từ cha ruột là ông Lý D trước năm 1973. Quá trình sử dụng thửa đất số 153 nêu trên, ông H có kê khai tường trình nguồn gốc đất làm hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được Hội đồng xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phường B họp xét cấp giấy chứng nhận cho ông H (theo Biên bản họp xét số 2554/BBXD ngày 20/5/2005 với tình trạng thửa đất không tranh chấp). Kết luận của Hội đồng đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ranh giới sử dụng đất được xác định theo Biên bản thỏa thuận ranh giới được UBND phường B xác nhận ngày 16/5/2006, tình trạng thửa đất không tranh chấp và hồ sơ kỹ thuật thửa đất do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố B1 lập ngày 12/8/2010.
Với nguồn gốc nêu trên, căn cứ Luật Đất đai năm 2003; Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004; Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 và Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính Phủ quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố B1 đã tham mưu trình UBND thành phố B1 ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BC 781870 cho ông Lý Văn H vào ngày 30/11/2010 tại thửa đất số 154 là đảm bảo theo đúng trình tự thủ tục quy định. Việc bị đơn yêu cầu phản tố, yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 781870 đã cấp cho ông Lý Văn H ngày 30/11/2010 tại thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B là không có cơ sở xem xét.
Trường hợp trong quá trình xác minh và xét xử có phát sinh các tình tiết, chứng cứ xác định nguồn gốc sử dụng đất, quá trình sử dụng đất, hiện trạng sử dụng đất theo kê khai của Bà Nguyễn Thị M cùng ý kiến xác minh của UBND phường B có sai lệch so với hồ sơ kê khai thì đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai căn cứ theo quy định của pháp luật để giải quyết theo quy định.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2022/DS-ST ngày 09/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lý Văn H về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” đối với Bà Nguyễn Thị M.
Xác định phần đất tranh chấp có diện tích 146,7m2, thuộc thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai (phần đất được giới hạn bởi các mốc 15, 26, 25, 24, 23, 15 theo Bản đồ hiện trạng khu đất số 3297/2022 ngày 18/5/2022 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai - Chi nhánh Biên Hòa) thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Lý Văn H.
Buộc ông Lý Văn H phải thanh toán cho bà Nguyễn Thị M số tiền 203.106.150 đồng (hai trăm lẻ ba triệu một trăm lẻ sáu nghìn một trăm năm mươi đồng).
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị M về việc yêu cầu công nhận diện tích đất 146,7m2, thuộc thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà M và không chấp nhận yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 781870 được UBND thành phố B1 cấp cho ông Lý Văn H ngày 30/11/2010.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí dân sự sơ thẩm, thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 22/11/2022 Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai nhận đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị M là bị đơn kháng cáo đề nghị sửa án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông H2 đại diện cho bà Nguyễn Thị M vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện bị đơn ông H2 trình bày: bị đơn có đủ cơ sở xác định đất tranh chấp bà M sử dụng ổn định từ năm 1965, có mốc ranh không thay đổi, có xây dựng tường rào. Ông H có biết và đồng ý. Biên bản thỏa thuận ranh giới ngày 09/4/2011 và biên bản hòa giải ngày 16/6/2015 có xác nhận của bà Đ, ông M2, đại diện các hộ dân của tổ 17, khu phố 3 sinh sống lâu năm biết. Diện tích tranh chấp có nhà tranh chấp, xây dựng năm 2001, cho bà L2 thuê từ năm 2001. Có đủ cơ sở chứng minh bà M quản lý liên tục phần đất này. Khi cấp giấy cho các hộ không có đo đạc. Văn bản 4948/TNMT-QLĐĐ của Phòng Tài nguyên và Môi trường đã nêu rõ cấp giấy quyền sử dụng đất thửa đất 153 cho ông H không đo đạc hiện trang sử dụng đất, cấp đất thửa 143 cho bà M cũng không đo đạc hiện trạng sử dụng đất. Quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không có đo đạc là vi phạm quy định về đất đai. Trước đây án sơ thẩm, phúc thẩm thừa nhận bà M có quản lý sử dụng đất, nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng bà M lấn chiếm là không đúng. Đất không cấp đúng trình tự thủ tục. Việc nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm xâm phạm quyền và lợi ích của bị đơn. Đề nghị sửa án, không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu của bà M.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Nội dung: Xét kháng cáo của bà M thì quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, quá trình xem xét để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H, bà M, các cơ quan có thẩm quyền không tiến hành đo đạc hiện trạng thửa đất, không xem xét ranh mốc thực tế giữa hai thửa đất, chỉ căn cứ hồ sơ do các đương sự đăng ký, kê khai nhưng sau đó đã được lập biên bản xác định mốc ranh có chữ ký các chủ sử dụng đất giáp ranh, ông H, bà M không có kiến nghị điều chỉnh ranh giới so với bản đồ địa chính. Quá trình xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H, bà M không có biến động về ranh giới thửa đất, diện tích so với bản đồ địa chính đã lập, chỉnh lý và được UBND phường B kiểm tra, xác nhận không tranh chấp nên việc UBND thành phố B1 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H, bà M phù hợp với quy định của pháp luật. Theo bản đồ hiện trạng khu đất số 3297/2022 ngày 18/5/2022 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai - Chi nhánh Biên Hòa thì phần diện tích đất theo bản đồ địa chính của ông H và bà M không thay đổi so với diện tích đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hai bên; phần đất tranh chấp có diện tích là 146,7m2, thuộc thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H nhưng bà M đã dựng tường rào B40, xây một phần căn nhà cấp 4 lấn qua đất của ông H với diện tích 8,3m2, nên việc ông H khởi kiện yêu cầu bà M phải trả lại diện tích đất 146,7m2 thuộc thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B được giới hạn bởi các mốc 15, 26, 25, 24, 23, 15 theo Bản đồ hiện trạng khu đất số 3297/2022 ngày 18/5/2022 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai - Chi nhánh Biên Hòa là có căn cứ.
Thửa đất tranh chấp ông H được cấp nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông H. Diện tích của bà M không thay đổi. Diện tích tranh chấp cộng với diện tích ông H sử dụng mới đủ diện tích ông H được cấp.
Về yêu cầu phản tố của bà M thì việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H là đúng quy định. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà M là có cơ sở.
Diện tích đất tranh chấp 146,7m2, thuộc thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai đã có các Quyết định số 1743/QĐ- UBND; 1810/QĐ-UBND; 1737/QĐ-UBND; 1775/QĐ-UBND cùng ngày 03/7/2021 của UBND thành phố B1 về việc thu hồi, bồi thường, hỗ trợ cho ông Lý Văn H để thực hiện dự án Công viên và kè sông Đồng Nai, thành phố B1 (từ cầu Hóa An đến giáp ranh huyện Vĩnh Cửu). Ông H14, bà M là người có công sức trong việc tôn tạo, giữ gìn đất, như xây dựng một phần căn nhà trên đất, xây dựng bờ kè chống sạt lở, xây dựng hàng rào, gắn lưới B40 trên phần đất tranh chấp, việc này cũng được ông H thừa nhận nên Tòa án cấp sơ thẩm xem xét công sức cho bà M được hưởng 1/2 giá trị đất tranh chấp là phù hợp. Giá đất bị thu hồi của thửa đất 153 do ông H là chủ sử dụng là 2.769.000đ/m2, nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông H thanh toán cho bà M ½ giá trị quyền sử dụng đất, là tiền công sức, tôn tạo diện tích đất tranh chấp đã bị thu hồi tương ứng với số tiền, cụ thể: 146,7m2 x 2.769.000đ : 2 = 203.106.150 đồng là có căn cứ, bảo đảm quyền lợi của bà M.
Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án đúng pháp luật. Bà M kháng cáo không có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bà M, giữ nguyên án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Ông Lý Văn H và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Lý Văn H, người đại diện theo ủy quyền của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lý Mỹ H2, bà Lý Mỹ H4, bà Lý Mỹ H5, bà Lý Mỹ H6, bà Lý Mỹ H7, bà Lý Mỹ H8, bà Lý Mỹ H9, ông Lý Đức H10, bà Lý Bích H11, ông Lý Đức H12 là ông Từ Ngọc C; người đại diện theo ủy quyền của UBND thành phố B1 ông Võ Phương T2; bà Lương Thị Thùy L ông Trần Minh T1 vắng mặt. Căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên là phù hợp.
[2] Xét kháng cáo của Bà Nguyễn Thị M là nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai là của bà Trần Thị M3 là bà nội của ông Lý Văn H nhận tặng, cho đất theo “Tờ cho đứt đất” lập vào ngày 26/3/1942 có sự chứng nhận của Hương Chức làng Tân Thanh, Biên Hòa, diện tích đất nhận tặng, cho là 5.706m2. Sau khi bà M3 chết, con của bà M3 và là cha của ông Lý Văn H là ông Lý D hưởng thừa kế phần đất. Năm 1973, ông D chết nên ông H hưởng thừa kế đất và sử dụng cho đến nay. Quá trình quản lý sử dụng đất, ông H đi đăng ký kê khai vào ngày 24/5/2000 diện tích 1.499,3m2. Ngày 30/11/2010 ông H được UBND thành phố B1 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 781870 đối với diện tích đất 1.499,3m2, thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai.
[2.2] Bà Nguyễn Thị M là chủ sử dụng diện tích đất 1.766,4m2, thửa đất số 143, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai. Nguồn gốc đất là của ông Trần Văn X, cha của ông Trần Văn H14 là chồng của bà M nhận tặng, cho đất theo “Tờ cho đứt đất” lập vào ngày 26/3/1942, có sự chứng nhận của Hương Chức làng Tân Thanh, Biên Hòa, diện tích đất nhận tặng, cho là 5.706m2. Năm 1978, ông Ân cho ông H14 sử dụng đất. Năm 2000, ông H14 đăng ký kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, năm 2001, ông H14 chết. Năm 2010, bà M được UBND thành phố B1 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 034731 ngày 01/11/2010 cho bà M đối với phần đất trên.
[2.3] Diện tích đất tranh chấp là 146,7m2 thuộc thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai được UBND thành phố B1 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H nằm giáp ranh với thửa đất số 143, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai được UBND thành phố B1 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà M. Trên thực tế, phần đất tranh chấp hiện nay do bà M quản lý, sử dụng một phần, trên đất có một phần căn nhà cấp 4 với diện tích 8,3m2.
[2.4] Vụ án đã được Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử bằng bản án số 06/2017/DS-ST ngày 19/9/2017 không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lý Văn H, chấp nhận yêu cầu phản tố của bà M và Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử bản án số 272/2018/DS-PT ngày 14/9/2018 hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai giải quyết lại.
Qua các tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập được từ Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai - Chi nhánh Biên Hòa và các tài liệu do UBND thành phố B1 cung cấp thể hiện: Ngày 20/5/2000, ông Lý Văn H có Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất có diện tích 1.499,3m2 thuộc thửa số 153, tờ bản đồ số 27, phường B, được UBND phường B xác nhận ngày 16/5/2006 kèm theo Bản hồ sơ kỹ thuật thửa đất do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai - Chi nhánh Biên Hòa lập ngày 12/8/2010; Biên bản thỏa thuận về mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất có chữ ký của người sử dụng đất liền kề là ông Trần Văn H14(chồng của bà M).
[2.5] Ngày 13/6/2000, ông Trần Văn H14 có Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất, (không ghi diện tích đất); ngày 21/7/2010 bà Nguyễn Thị M có Đơn xác nhận hạn điền, phần diện tích 1.766,4m2 thuộc thửa số 143, tờ bản đồ số 27, phường B, được UBND phường B xác nhận ngày 22/7/2010 kèm theo Bản vẽ thửa đất do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai - Chi nhánh Biên Hòa lập ngày 27/6/2010; Biên bản thỏa thuận về mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất có chữ ký của người sử dụng đất liền kề.
[2.6] Theo Văn bản số 4948/TNMT-QLĐĐ ngày 22/6/2017 của Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố B1 có xác định: Hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 781870 ngày 30/11/2010 cho ông Lý Văn H không thực hiện việc đo đạc hiện trạng thửa đất, tuy nhiên có tổ chức lập Biên bản thỏa thuận về ranh giới thửa đất ngày 10/6/2000, được UBND phường B xác nhận ngày 16/5/2006. Hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 034731 ngày 01/11/2010 cho bà Nguyễn Thị M không thực hiện việc đo đạc hiện trạng thửa đất, tuy nhiên có tổ chức lập Biên bản thỏa thuận về ranh giới thửa đất ngày 22/3/2007, được UBND phường B xác nhận ngày 11/4/2007, có chữ ký xác nhận của bà M và các chủ sử dụng đất giáp ranh.
[2.7] Trong quá trình xem xét để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H, bà M, các cơ quan có thẩm quyền không tiến hành đo đạc hiện trạng thửa đất, không xem xét ranh mốc thực tế giữa hai thửa đất, chỉ căn cứ hồ sơ do các đương sự đăng ký, kê khai nhưng sau đó đã được lập biên bản xác định mốc ranh có chữ ký các chủ sử dụng đất giáp ranh, ông H, bà M không có kiến nghị điều chỉnh ranh giới so với bản đồ địa chính. Quá trình xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H, bà M không có biến động về ranh giới thửa đất, diện tích so với bản đồ địa chính đã lập, chỉnh lý và được UBND phường B kiểm tra, xác nhận không tranh chấp nên việc UBND thành phố B1 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H, bà M phù hợp với quy định của pháp luật.
[2.8] Theo Bản đồ hiện trạng khu đất số 3297/2022 ngày 18/5/2022 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai - Chi nhánh Biên Hòa thì phần diện tích đất theo bản đồ địa chính của ông H và bà M không thay đổi so với diện tích đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hai bên; phần đất tranh chấp có diện tích là 146,7m2, thuộc thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H nhưng bà M đã dựng tường rào B40, xây một phần căn nhà cấp 4 lấn qua đất của ông H với diện tích 8,3m2, nên việc ông H khởi kiện yêu cầu bà M phải trả lại diện tích đất 146,7m2 thuộc thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B được giới hạn bởi các mốc 15, 26, 25, 24, 23, 15 theo Bản đồ hiện trạng khu đất số 3297/2022 ngày 18/5/2022 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai - Chi nhánh Biên Hòa là có căn cứ.
[2.9] Hiện nay, diện tích đất tranh chấp 146,7m2, thuộc thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai đã có các Quyết định số 1743/QĐ-UBND; 1810/QĐ-UBND; 1737/QĐ-UBND; 1775/QĐ-UBND cùng ngày 03/7/2021 của UBND thành phố B1 về việc thu hồi, bồi thường, hỗ trợ cho ông Lý Văn H để thực hiện dự án Công viên và kè sông Đồng Nai, thành phố B1 (từ cầu Hóa An đến giáp ranh huyện Vĩnh Cửu), nên Tòa án cấp sơ thẩm không buộc bà M trả cho ông H phần đất tranh chấp, mà xác định phần đất tranh chấp trên thuộc quyền sử dụng của ông H là phù hợp.
[2.10] Thực tế ông H14, bà M là người có công sức trong việc tôn tạo, giữ gìn đất, như xây dựng một phần căn nhà trên đất, xây dựng bờ kè chống sạt lở, xây dựng hàng rào, gắn lưới B40 trên phần đất tranh chấp, việc này cũng được ông H thừa nhận nên Tòa án cấp sơ thẩm xem xét công sức cho bà M được hưởng 1/2 giá trị đất tranh chấp là phù hợp.
[2.11] Phần đất tranh chấp đã được UBND thành phố B1 bồi thường, hỗ trợ cho ông Lý Văn H, theo Quyết định số 1737/QĐ-UBND; Quyết định số 1775/QĐ-UBND cùng ngày 03/7/2021, tại Bản chiết tính giá trị bồi thường Mã số: 151 ngày 21 tháng 5 năm 2021 và Mã số 150 tháng 6 năm 2021 của Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố B1, thì giá đất bị thu hồi của thửa đất 153 do ông H là chủ sử dụng là 2.769.000đ/m2, nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông H thanh toán cho bà M ½ giá trị quyền sử dụng đất, là tiền công sức, tôn tạo diện tích đất tranh chấp đã bị thu hồi tương ứng với số tiền, cụ thể: 146,7m2 x 2.769.000đ : 2 = 203.106.150 đồng.
[2.12] Đối với yêu cầu phản tố của bà M: việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 781870 đối với diện tích đất 1.499,3m2 thuộc thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai được UBND thành phố B1 cấp cho ông H ngày 30/11/2010 là đúng quy định của pháp luật, nên yêu cầu của bà M không có căn cứ.
[3] Từ những phân tích trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng pháp luật, giải quyết vụ án có tình có lý. Kháng cáo bà M không có căn cứ và cũng không đưa ra chứng cứ gì làm thay đổi nội dung vụ án nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà M, giữ nguyên án sơ thẩm.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà M được miễn án phí do người cao tuổi.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 26, 34, 228, khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 50 Luật Đất đai năm 2003; Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của Bà Nguyễn Thị M.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2022/DS-ST ngày 09/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lý Văn H về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” đối với Bà Nguyễn Thị M.
Xác định phần đất tranh chấp có diện tích 146,7m2, thuộc thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai (phần đất được giới hạn bởi các mốc 15, 26, 25, 24, 23, 15 theo Bản đồ hiện trạng khu đất số 3297/2022 ngày 18/5/2022 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai - Chi nhánh Biên Hòa) thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Lý Văn H.
Buộc ông Lý Văn H phải thanh toán cho Bà Nguyễn Thị M số tiền 203.106.150 đồng (hai trăm lẻ ba triệu một trăm lẻ sáu nghìn một trăm năm mươi đồng).
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Bà Nguyễn Thị M về việc yêu cầu công nhận diện tích đất 146,7m2, thuộc thửa đất số 153, tờ bản đồ số 27, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà M và không chấp nhận yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 781870 được UBND thành phố B1 cấp cho ông Lý Văn H ngày 30/11/2010.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lý Văn H và Bà Nguyễn Thị M không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho ông Lý Văn H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.125.000 đồng (hai triệu một trăm hai mươi lăm nghìn đồng) theo Biên lai số 003320 ngày 19/11/2015 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B1, tỉnh Đồng Nai.
Hoàn trả cho Bà Nguyễn Thị M số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.485.325 đồng (hai triệu bốn trăm tám mươi lăm nghìn ba trăm hai mươi lăm đồng) theo Biên lai số 003472 ngày 13/01/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B1, tỉnh Đồng Nai.
4. Về chi phí tố tụng khác: Ông Lý Văn H đã nộp chi phí tố tụng xong không yêu cầu bà M phải thanh toán lại nên không đặt ra để giải quyết.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị M được miễn án phí.
6. Về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ thi hành án:
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 600/2023/DS-PT
Số hiệu: | 600/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về