Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, đòi bồi thường thiệt hại tài sản số 341/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 341/2022/DS-PT NGÀY 02/08/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, ĐÒI BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TÀI SẢN

Trong các ngày 22/7/2022, ngày 02 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 149/2022/TLPT-DS ngày 09 tháng 6 năm 2022 về việc “Tranh chấp dân sự Quyền sử dụng đất, Đòi bồi thường thiệt hại về tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 04/2022 DS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện T bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 218/2022/QĐ-PT ngày 30 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Đoàn Văn Đ, sinh năm 1963. Địa chỉ: ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1957.

Địa chỉ: ấp T, xã T, thành phố H, tỉnh Đồng Tháp.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. NLQ 1, sinh năm 1953;

2. NLQ 2, sinh năm 1983.

Cùng địa chỉ: ấp T, xã T, tp. H, tỉnh Đồng Tháp.

3. NLQ 3.

Người đại diện theo pháp luật bà Phạm Thị P, chức vụ: Chi cục trưởng. Địa chỉ: Khóm I, thị trấn S, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

(Có mặt: Ông Đ, bà D, ông T, anh T; vắng mặt bà Phạm Thị P (có đơn xin vắng mặt).

- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị D là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn ông Đoàn Văn Đ trình bày:

Vào năm 2013 và năm 2014 Tòa án nhân dân thị xã H và Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử buộc bà Nguyễn Thị D và Cao Văn T có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Đ nợ vay gốc và lãi là 33.375.000 đồng. Đến ngày 27/11/2014 NLQ3 ra Quyết định buộc bà D và anh Tuấn Em phải thi hành cho ông Đ số tiền 33.375.000 đồng. Do bà D và anh T vẫn không chịu trả nên cơ quan thi hành án đã cưỡng chế tài sản của bà D bán đấu giá và ông Đ là người trúng đấu giá diện tích đất 2.000m2 của bà D với giá 91.000.000 đồng. Từ khi được cơ quan thi hành án cưỡng chế giao đất cho ông Đ thì đến nay ông Đ không canh tác được do bà D bao chiếm đất của ông Đ.

Theo đơn khởi kiện ông Đ yêu cầu buộc bà Nguyễn Thị D trả diện tích đất 2.000m2, thuộc thửa 1439, 1441, tờ bản đồ số 7 (L) do ông Đ được cấp quyền sử dụng ngày 22/3/2018, đất tọa lạc ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; đồng thời yêu cầu bà D bồi thường thiệt hại về tài sản từ việc bao chiếm đất với số tiền là 12.000.000 đồng.

Tại phiên hòa giải ngày 17/3/2022 và tại phiên tòa sơ thẩm ông Đ thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bà D trả cho ông số tiền 91.000.000 đồng là giá trị diện tích đất 2.000m2, ông Đ đồng ý làm thủ tục chuyển quyền sử dụng 2.000m2 đất lại cho bà D. Ông Đ rút yêu cầu bà D bồi thường thiệt hại số tiền 12.000.000đồng - Bị đơn bà Nguyễn Thị D trình bày:

NLQ3 cưỡng chế giao đất của bà D cho ông Đ thì bà không biết, vì bà và gia đình không nhận được thông báo về việc cưỡng chế giao đất và ngày cưỡng chế giao đất bà D cũng không có chứng kiến. Nay bà D chỉ thống nhất trả cho ông Đ số tiền nợ vay theo bản án của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã tuyên là 33.375.000 đồng.

Ngoài ra bà D yêu cầu NLQ3 bồi thường thiệt hại gồm: Phần diện tích 2.000m2 đất lúa của bà D đến giai đoạn thu hoạch bị mất trắng, thiệt hại 10.000.000 đồng; do cày xới hư đường nước không thể dẫn nước vào tưới tiêu phần diện tích đất còn lại 11.000m2 thiệt hại 27.500.000đồng và bồi thường danh dự cho bà D số tiền 15.000.000 đồng. Tổng cộng là 52.500.000 đồng. Sau khi NLQ3 bồi thường cho bà D số tiền nêu trên thì bà D sẽ trả lại số tiền bà D nợ ông Đ theo bản án có hiệu luật là 33.375.000 đồng.

- Người liên quan NLQ3, đại diện bà Phạm Thị P trình bày tại văn bản số 300/CCTHADS ngày 25-7-2019 như sau: Việc tổ chức thi hành án, cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất, thẩm định giá, bán đấu giá, cưỡng chế giao quyền sử dụng đất cho người trúng đấu giá đảm bảo trình tự, thủ tục về thi hành án dân sự, số tiền bán đấu giá 2.000m2 đất nêu trên của bà D sau khi đã chi trả các khoản còn lại là 45.298.000 đồng, do bà D không thống nhất nhận lại số tiền trên nên NLQ3 đã gửi tiết kiệm và tính đến ngày 07/7/2020 thì tổng tiền gốc và lãi là 55.294.900 đồng. Nếu Tòa án giải quyết trả số tiền chênh lệch về tài sản cho người thụ hưởng thì NLQ3 sẽ làm thủ tục chi trả đúng theo quy định.

Việc bà D yêu cầu bồi thường thiệt hại số tiền 52.500.000 đồng, Chi cục Thi hành án dân sự Huyện không đồng ý, vì Chấp hành viên đã thực hiện đúng quy trình thi hành án kê biên cưỡng chế giao tài sản đúng quy định của pháp luật.

Đối với yêu cầu của ông Đ trong vụ án thì NLQ3 không có ý kiến.

- Người liên quan NLQ 1, NLQ2 thống nhất theo lời trình bày của bà D, không ý kiến khác.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 04/2022/DS-ST ngày 26/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện T đã quyết định:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đoàn Văn Đ.

Buộc bà Nguyễn Thị D và NLQ 1 trả cho ông Đoàn Văn Đ số tiền 91.000.0000 đồng, được khấu trừ vào số tiền 58.562.300 đồng, còn lại số tiền phải trả là 32.437.700 đồng, là giá trị đối với diện tích đất 2.000m2, thuộc thửa 1439, 1441, tờ bản đồ số 7 do ông Đ đứng tên quyền sử dụng đất (hiện nay gia đình bà D, ông T đang quản lý sử dụng canh tác).

NLQ3 có trách nhiệm rút số tiền vốn và lãi 58.562.300 đồng tính đến ngày xét xử sơ thẩm và tiền lãi phát sinh tạm giữ của bà Nguyễn Thị D đã gửi Ngân hàng để chi trả và Thi hành án cho ông Đoàn Văn Đ.

Công nhận sự tự nguyện của ông Đoàn Văn Đ tự nguyện làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 2.000m2, thuộc thửa 1439, 1441, tờ bản đồ số 7, mục đích sử dụng: đất chuyên trồng lúa nước, do ông Đoàn Văn Đ đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tọa lạc tại ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Tháp cho bà Nguyễn Thị D.

Các đương sự đến cơ quan chức năng để chuyển quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.

Đình chỉ một phần khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại của ông Đoàn Văn Đ yêu cầu bà Nguyễn Thị D bồi thường 12.000.000 đồng, do ông Đ rút lại không yêu cầu bồi thường.

2. Bị đơn bà Nguyễn Thị D yêu cầu NLQ3 bồi thường thiệt hại về tài sản và danh dự tổng số tiền 52.500.000 đồng, do không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên không xem xét giải quyết.

3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Đoàn Văn Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại cho ông Đ số tiền đã nộp tạm ứng án phí 2.300.000đồng, theo biên lai số 0002133 ngày 01/11/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

Bà Nguyễn Thị D và NLQ 1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, nhưng do bà D và ông Tâm có làm đơn xin miễn tiền án phí (thuộc trường hợp người cao tuổi), Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, nên Hội đồng xét xử xét miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm cho bà D và ông T.

NLQ2, NLQ3 không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Ngoài ra bản án còn tuyên quyền kháng cáo, quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự.

- Sau khi án sơ thẩm xử, ngày 09/5/2022 bị đơn bà Nguyễn Thị D kháng cáo yêu cầu xem xét lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

- Tại phiên tòa phúc thẩm:

+ Nguyên đơn ông Đoàn Văn Đ vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bị đơn bà Nguyễn Thị D trả số tiền giá trị quyền sử dụng đất 2.000m2 do trúng đấu giá là 91.000.000đồng, ông Đ đống ý chuyển quyền sử dụng phần đất trên lại cho bà D; ông Đ rút yêu cầu đòi bà D bồi thường thiệt hại số tiền 12.000.000đồng.

+ Bị đơn bà Nguyễn Thị D giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, yêu cầu NLQ3 bồi thường thiệt hại số tiền 52.000.000 đồng.

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tỉnh phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phúc thẩm. Về nội dung: Đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị D, giữ nguyên án sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, và ý kiến phát biểu đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Bà Nguyễn Thị D kháng cáo yêu cầu NLQ3 bồi thường thiệt hại diện tích 2.000m2 đất lúa của bà D đến giai đoạn thu hoạch bị mất trắng, thiệt hại là 10.000.000đồng; do cày xới hư đường nước không thể dẫn nước vào tưới tiêu phần diện tích đất còn lại 11.000m2 thiệt hại là 27.500.000đồng và bồi thường danh dự cho bà D số tiền 15.000.000 đồng. Tổng cộng 52.500.000đồng. Xét thấy:

[1] Tại bản án dân sự phúc thẩm số: 92/2014/DS-PT ngày 01/7/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã xử: Buộc bà D và anh T trả cho ông Đoàn Văn Đ số tiền nợ vay gốc và lãi là 33.375.000đồng và lãi chậm trả cùng với nộp án phí 1.668.000đồng. Bản án có hiệu lực pháp luật nên ngày 27/11/2014 NLQ3 ra Quyết định số 259/QĐ-CCTHA và Quyết định số 260/QĐ-CCTHA buộc bà D và anh T thi hành các khoản tiền trên.

Do bà D và anh T không tự nguyện thi hành án, nên ngày 19/6/2015 Chấp hành viên cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị D diện tích 2.000m2 thuộc một phần thửa 359, 787 cùng tờ bản đồ số 7, đất tọa lạc ấp T, xã B, huyện T để đảm bảo thi hành án. Sau khi kê biên, Chấp hành viên đã ký hợp đồng thẩm định giá với Công ty cổ phần thông tin và thẩm định giá Miền Nam để thẩm định giá đối với diện tích đất 2.000m2 của bà D. Căn cứ chứng thư thẩm định giá ngày 17/9/2017 giá trị đất 2.000m2 x 45.000đồng/m2 = 90.000.000đồng. Ngày 14/10/2015 Chấp hành viên đã ủy quyền bán đấu giá tài sản, đến ngày 19/11/2015 Công ty TNHH bán đấu giá tài sản Tây Đô đã bán đấu giá thành 2.000m2 đất của bà D giá 91.000.000 đồng, người trúng đấu là ông Đoàn Văn Đ, đồng thời là người được thi hành án. Sau khi ông Đ nộp đủ tiền mua tài sản, ngày 02/12/2015 Chấp hành viên đã ra thông báo số 232/TB-CCTHADS giao quyền sử dụng đất cho ông Đ là người mua tài sản đấu giá, đồng thời có thông báo cho bà D biết nếu không tự nguyện sẽ bị cưỡng chế. Ngày 22/01/2016 Chấp hành viên ra Quyết định cưỡng chế giao quyền sử dụng đất (lúc này bà D vừa thu hoạch xong vụ lúa Đông – Xuân năm 2015 – 2016) nhưng bà D cũng không chấp hành giao đất, nên ngày 17/3/2016 Chấp hành viên đã tổ chức cưỡng chế giao quyền sử dụng đất cho người trúng đấu giá là ông ông Đ và ông Đ đã sử dụng cày xới, gieo xạ lúa trên đất được giao.

[2] Việc cưỡng chế thi hành án giao đất cho người trúng đấu giá của Chấp hành viên, bà D cho rằng 2.000m2 đất lúa của bà đến giai đoạn thu hoạch bị mất trắng, thiệt hại là 10.000.000đồng; do cày xới hư hỏng đường nước không thể dẫn nước vào tưới tiêu phần diện tích đất còn lại 11.000m2 thiệt hại là 27.500.000đồng và bồi thường danh dự cho bà D số tiền 15.000.000 đồng. Tổng cộng 52.500.000đồng yêu cầu NLQ3 bồi thường. Xét yêu cầu này bà D chưa được giải quyết ở Tòa án cấp sơ thẩm nên Tòa án cấp phúc thẩm không thể xem xét, giải quyết được.

Từ đó, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà D, giữ nguyên án sơ thẩm của Tòa án huyện T.

[3] Các phần khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Án phí phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bà D phải chịu án phí theo quy định tại Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên bà D có đơn xin miễn án phí, là đối đượng được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 nên miễn án phí đối với bà D.

[5] Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán chủ tọa, Hội đồng xét xử cũng như các đương sự đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà D; giữ nguyên bản án sơ thẩm. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 148, Điều 308, Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Ngyễn Thị D;

Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 04/2022/DS- ST ngày 26/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện T.

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đoàn Văn Đ.

Buộc bà Nguyễn Thị D và NLQ 1 trả cho ông Đoàn Văn Đ số tiền 91.000.0000 đồng, được khấu trừ vào số tiền 58.562.300 đồng, còn lại số tiền phải trả là 32.437.700đồng (là giá trị đối với diện tích đất 2.000m2, thuộc thửa 1439, 1441, tờ bản đồ số 7 do ông Đ đứng tên quyền sử dụng đất (đất hiện bà D, ông Tâm đang quản lý sử dụng).

NLQ3 có trách nhiệm rút số tiền vốn, lãi 58.562.300 đồng tính đến ngày xét xử sơ thẩm và tiền lãi phát sinh tạm giữ của bà Nguyễn Thị D đã gửi Ngân hàng để chi trả và Thi hành án cho ông Đoàn Văn Đ.

Công nhận sự tự nguyện của ông Đoàn Văn Đ làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 2.000m2, thuộc thửa 1439, 1441, tờ bản đồ số 7 (đất chuyên trồng lúa nước) do ông Đoàn Văn Đ đứng tên quyền sử dụng đất, tọa lạc tại ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Tháp cho bà Nguyễn Thị D.

Các đương sự được đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục, kê khai đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.

2. Đình chỉ một phần khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại của ông Đoàn Văn Đ yêu cầu bà Nguyễn Thị D bồi thường 12.000.000 đồng (do ông Đ rút yêu cầu).

3. Bị đơn bà Nguyễn Thị D yêu cầu NLQ3 bồi thường thiệt hại về tài sản và danh dự tổng số tiền 52.500.000 đồng, do không thuộc thẩm quyền của Tòa án nên không xem xét giải quyết.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Ông Đoàn Văn Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại cho ông Đ 2.300.000đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0002133 ngày 01/11/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Hồng.

- Bà Nguyễn Thị D và NLQ 1 được miễn án phí (do có đơn xin miễn án phí và là người cao tuổi theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội).

5. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị D được miễn án phí.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, đòi bồi thường thiệt hại tài sản số 341/2022/DS-PT

Số hiệu:341/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:02/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về