Bản án về tranh chấp quyền sở hữu nhà và đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 186/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 186/2022/DS-PT NGÀY 29/03/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU NHÀ VÀ ĐẤT, YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 29 tháng 03 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 356/2021/TLPT-DS ngày 2 tháng 6 năm 2021 về việc “Tranh chấp quyền sở hữu nhà và đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2021/DS-ST ngày 25 tháng 02 năm 2021 của Toà án nhân dân tỉnh An Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 258/2022/QĐPT-DS ngày 07 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị S (Suong T Walls), sinh năm 1954;

Địa chỉ: 4491 – HART WELL – DR – COLUMBUS, OH 43224, USA.

Địa chỉ tạm trú: Ấp M, thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang (có mặt).

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Trần Văn Thanh Q, sinh năm 1971; Địa chỉ: ấp L, xã L, huyện C, tỉnh An Giang (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Thành T - Công Ty Luật TNHH MTV T, Đoàn luật sư tỉnh An Giang; Địa chỉ: Số 32, đường B, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang (có mặt).

- Bị đơn:

1. Ông Trần Quang V, sinh năm 1958 (vắng mặt);

Địa chỉ: Số 199 Bis, tổ 69, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang.

2. Ông Trần Quang N, sinh năm 1988 (có mặt);

Địa chỉ: Khóm Đô, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang.

3. Ông Trần Quang C, sinh năm 1982 (có mặt);

Cư trú: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị đơn: Luật sư Trần Minh H – Văn phòng Luật sư Gia đình và Luật sư Lê Phước H1 – Công ty Luật TNHH MTV Phước Hưng (có mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ủy ban nhân dân tỉnh A;

2. Ủy ban nhân dân thành phố L, tỉnh A;

Địa chỉ trụ sở: Số 99 đường N, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang (vắng mặt).

3. Bà Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1962 (vắng mặt).

Cư trú: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang.

4. Bà Trần Thị Mộng T, sinh năm 1984 (vắng mặt).

Cư trú: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang.

5. Bà Trương Thị Cẩm N, sinh năm 1997 (có mặt).

Cư trú: Ấp K, xã K, huyện C, tỉnh An Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của ông V, bà L, bà T và bà N: Ông Trần Quang N, sinh năm 1988. Địa chỉ: Khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang (có mặt).

6. Bà Lại Thị Kiều O, sinh năm 1989 (có mặt);

Cư trú: Ấp L, xã L, huyện C, tỉnh An Giang.

7. Trần Tuệ T1, sinh năm 2018;

Cư trú: 199 Bis, tổ 69, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang.

Người đại diện theo pháp luật của Trần Tuệ T1: Ông Trần Quang N, sinh năm 1988 và bà Lại Thị Kiều O, sinh năm 1989. Cùng cư trú: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang (có mặt).

8. Lê Gia P1, sinh năm 2018; Cư trú: 199 Bis, tổ 69, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang.

Người đại diện theo pháp luật của Lê Gia P1: Bà Trần Thị Mộng T, sinh năm 1984. Cư trú: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt).

- Người làm chứng:

1. Ông Trần Văn S, sinh năm 1965 (vắng mặt);

2. Bà Trần Thị Y; sinh năm 1950 (vắng mặt);

3. Ông Trần Văn H; sinh năm 1965 (có mặt);

Cùng cư trú: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang.

- Người kháng cáo: Các bị đơn ông Trần Quang V, ông Trần Quang C và ông Trần Quang N; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Mộng T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Trần Thị S (Sương T Walls) do ông Trần Văn Thanh Q đại diện ủy quyền trình bày:

Bà S định cư ở Mỹ, cuối năm 2007 có gửi tiền về nhờ ông V mua giùm một miếng đất và nhà để làm nhà trọ và nhờ ông V đứng tên giùm. Tuy nhiên sau đó, ông V lại chuyển nhượng tất cả cho các con của ông V. Khi bà S biết việc chuyển nhượng tài sản của bà cho người khác, thì bà S khởi kiện đòi lại các tài sản gồm có nhà gắn liền với diện tích đất sau:

- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH04244, diện tích 200,0m2, thửa số 218, tờ bản đồ số 27, loại đất ở đô thị, đất tọa lạc tại phường M, thành phố L, tỉnh An Giang được Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 06/01/2014 cho Trần Quang N.

- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH04242, diện tích 198,1m2, thửa số 285, tờ bản đồ số 27, loại đất trồng cây lâu năm, đất tọa lạc tại phường M, thành phố L, tỉnh An Giang được Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 08/01/2014 cho Trần Quang C.

- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H.01614dA, diện tích 41,9m2, thửa số 266, tờ bản đồ số 27, loại đất trồng cây lâu năm, đất tọa lạc tại phường M, thành phố L, tỉnh An Giang được Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 15/02/2018 cho Trần Quang V.

Ngày 21/11/2019, ông Trần Văn Thanh Q là người đại diện hợp pháp của bà Trần Thị S nộp đơn yêu cầu thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện và yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang giải quyết những vấn đề sau đối với bị đơn:

Yêu cầu ông Trần Quang V, ông Trần Quang C, bà Trần Thị Mộng T, ông Trần Quang N trả lại cho bà Trần Thị S căn nhà gắn liền trên đất và các quyền sử dụng đất tại các thửa:

- Thửa đất số 285, tờ bản đồ số 27, diện tích 198,1m2, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06732 (số phát hành CR756196) do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp ngày 03 tháng 7 năm 2019 cho Trần Quang C đứng tên; thửa đất số 286, tờ bản đồ số 27, diện tích 41,9m2, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH04243 (số phát hành BP 240411) do UBND thành phố L, tỉnh An Giang cấp ngày 08 tháng 01 năm 2014 Trần Quang C đứng tên.

-Thửa đất số 473, tờ bản đồ số 27, diện tích 48,3m2, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06767 (số phát hành CS214064) do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp ngày 10 tháng 9 năm 2019 cho Trần Thị Mộng T đứng tên.

- Thửa đất số 218, tờ bản đồ số 27, diện tích 151,7m2, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06768 (số phát hành CS 214065) do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp ngày 10 tháng 9 năm 2019 cho Trần Quang N đứng tên.

Các thửa đất trên tọa lạc phường M, thành phố L, tỉnh An Giang.

Đồng thời, yêu cầu hủy tất cả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên.

Bị đơn ông Trần Quang N trình bày: Tài sản ông N được nhận hợp pháp từ cha của ông là ông Trần Quang V, còn sự việc giữa cha ông với bà S như thế nào thì ông N không biết và không có điều kiện để biết. Ông N không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc đòi lại tài sản và yêu cầu hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời vì không có cơ sở pháp lý, do ông N đã sử phần đất này ổn định lâu dài, xây dựng vật kiến trúc kiên cố trên đất được pháp luật, nhà nước thừa nhận. Ông N cho rằng là chủ sở hữu nên có quyền đối với tài sản đó.

Ông Trần Quang V, Trần Quang C, bà Trần Thị Mộng T có ý kiến như ông Trần Quang N.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2021/DS-ST ngày 25 tháng 02 năm 2021, Toà án nhân dân tỉnh An Giang đã quyết định:

Căn cứ các Điều 34, Điều 34, Điều 92, Điều 148, Điều 165 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 1 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị S (Suong T Walls);

Bà Trần Thị S được quyền sử dụng diện tích 440m2 đất tọa lạc tại các thửa 285, 286, 473, 218, tờ bản dồ số 27, theo các điểm 25, 26, 27, 30, 31, 34, 33, 32, 29, 28 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 08/5/2020 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Long Xuyên lập;

Bà Trần Thị S được quyền sở hữu căn nhà trên đất, diện tích xây dựng 273,5m2, tại các điểm 11,12,13,14,24,1 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 08/5/2020 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Long Xuyên lập;

2. Hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:

- Diện tích 41,9m2, đất trồng cây lâu năm, thửa 286, tờ bản đồ 27, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06722 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp ngày 14/6/2019 cho anh Trần Quang C đứng tên;

- Diện tích 198,1m2, đất trồng cây lâu năm, thửa 285, tờ bản đồ 27, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06732 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp ngày 03/7/2019 cho anh Trần Quang C đứng tên;

- Diện tích 48,3m2, đất ở đô thị, thửa 473, tờ bản đồ 27, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06767 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp ngày 10/9/2019 cho bà Trần Thị Mộng T đứng tên;

- Diện tích 151,7m2, đất ở đô thị, thửa 218, tờ bản đồ 27, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06768 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp ngày 10/9/2019 do anh Trần Quang N đứng tên.

3. Buộc ông Trần Quang C trả lại cho bà Trần Thị S diện tích đất 198m2, thuộc thửa số 285, tờ bản đồ số 27, theo giấy chứng nhận QSDĐ số CS06732 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp ngày 03/7/2019 và diện tích 41,9m2, đất trồng cây lâu năm, thửa 286, tờ bản đồ 27 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06722, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp 14/6/2019. Hai diện tích đất thể hiện tại các điểm 33, 32, 31 và các điểm 29,30,31,32 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 08/5/2020 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Long Xuyên lập.

4. Buộc bà Trần Thị Mộng T trả lại cho bà Trần Thị S diện tích 48,3m2, đất ở đô thị thửa số 473, tờ bản đồ số 27, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06767, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp 10/9/2019. Diện tích được thể hiện tại các điểm 29, 28,7, 30 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 08/5/2020 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Long Xuyên lập;

5. Buộc ông Trần Quang N trả lại cho bà Trần Thị S diện tích đất 151,7m2, số thửa 218, tờ bản đồ số 27, theo giấy chứng nhận QSDĐ số CS06768 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp 10/9/2019. Diện tích được thể hiện tại các điểm 28, 25, 26, 27 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 08/5/2020 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Long Xuyên lập;

6. Buộc ông Trần Quang V, anh Trần Quang C, chị Trần Thị Mộng T, anh Trần Quang N trả lại cho bà Trần Thị S căn nhà, gắn liền trên diện tích xây dựng là 273,5m2 tại các điểm 11, 12, 13, 14, 2, 14, 24, 1 đất tọa lạc tại phường M, thành phố L, tỉnh An Giang theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 08/5/2020 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Long Xuyên lập;

7. Ông Trần Quang V, anh Trần Quang C, chị Trần Thị Mộng T, anh Trần Quang N, Lê Gia P1, Lại Thị Kiều O, Trần Tuệ T1 được quyền lưu cư trong thời gian 06 tháng kể từ ngày bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật;

8. Bà Trần Thị S có trách nhiệm liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục kê khai, đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà theo quy định của pháp luật đối với căn nhà gắn liền với quyền sử dụng đất diện tích 440m2 tại các điểm 25, 26, 27, 30, 31, 34, 33, 32, 29, 28 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 08/5/2020 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Long Xuyên lập;

9. Không chấp nhận yêu cầu hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của anh Trần Quang C, chị Trần Thị Mộng T, anh Trần Quang N;

Tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 10, ngày 21/11/2019, của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang để bảo đảm thi hành án;

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 30 tháng 2 năm 2021, bị đơn ông Trần Quang V làm đơn kháng cáo bản án sơ thẩm và yêu cầu hủy bản án sơ thẩm.

Ngày 02 tháng 3 năm 2021, bị đơn ông Trần Quang N làm đơn kháng cáo bản án sơ thẩm và yêu cầu hủy bản án sơ thẩm.

Ngày 10 tháng 3 năm 2021, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Mộng T làm đơn kháng cáo bản án sơ thẩm và yêu cầu hủy bản án sơ thẩm.

Ngày 11 tháng 3 năm 2021, bị đơn ông Trần Quang C làm đơn kháng cáo bản án sơ thẩm và yêu cầu hủy bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

+ Người kháng cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm vì vụ án không qua hòa giải cơ sở.

+ Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn nêu quan điểm: Luật sư Hưng cho rằng cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi xét xử vắng mặt ông Trần Quang V, khi ông V có đơn xin hoãn phiên tòa sau thời gian cách ly trong thời điểm phòng chống dịch Covid-19.

Luật sư H cho rằng ngoài vi phạm tố tụng như luật sư Hưng trình bày thì trong trường hợp Hội đồng xét xử không hủy Bản án sơ thẩm thì đề nghị sửa Bản án sơ thẩm theo hướng tính công sức cho phía bị đơn trong việc bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị tài sản với tỷ lệ ½.

+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, Luật sư Nguyễn Thành T cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ vì phù hợp với các chứng cứ trong hồ sơ vụ án đó là các giấy tờ gửi tiền của bà Trần Thị S thể hiện qua các Sao kê tài khoản Ngân hàng của ông Trần Quang V (bà S gửi tiền cho ông V từ ngày 23/01/2008 đến năm 2011) thời gian này trùng khớp với thời gian ông V nhận chuyển nhượng đất từ vợ chồng ông Trịnh Văn H, bà Trương Thị Tuyết N để mua thửa đất đang tranh chấp; phù hợp với Đơn xin xác nhận tài sản riêng ngày 12/05/2008 với nội dung: “ Ông Trần Quang V, bà Nguyễn Thị Kim L xác nhận các tài sản đang tranh chấp trên là tài sản riêng của chị tôi là bà Trần Thị S (Sương Thị WallS) và chị tôi được toàn quyền quyết định (không ai có quyền tranh chấp) và vợ chồng tôi cũng không có quyền thừa hưởng”, có trưởng Ấp M xác nhận và được lập thành 03 bản. Đồng thời phù hợp với lời khai của ông Trần Văn S là em ruột của bà Trần Thị S, là anh của ông Trần Quang V. Do đó vị Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của các nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu:

Việc tuân theo pháp luật Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa đã tuân theo đúng của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định của pháp luật.

Đề xuất hướng giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà S là phù hợp với thực tế và có căn cứ; cấp sơ thẩm cũng không vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Các đương sự kháng cáo nhưng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ nào mới để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ nên kháng cáo của các đương sự là không có cơ sở chấp nhận. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đồng thời trong vụ án lẽ ra cần phải tính công sức cho phía bị đơn trong việc bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị tài sản. Tuy nhiên do tại cấp sơ thẩm bị đơn không yêu cầu, do đó đề nghị Hội đồng xét xử dành quyền khởi kiện cho bị đơn thành một vụ kiện dân sự khác khi có yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Đơn kháng cáo của các nguyên đơn là Ông Trần Quang V, ông Trần Quang N và ông Trần Quang C và bà Trần Thị Mộng T đúng về hình thức, nội dung, được nộp trong hạn luật định và thực hiện nghĩa vụ tạm ứng án phí nên là kháng cáo hợp lệ.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án:

Các đương sự tranh chấp quyền sở hữu tài sản và có yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vụ án có bà Trần Thị S (Suong T Walls), sinh năm 1954; có địa chỉ tại: 4491 – HART WELL – DR – COLUMBUS, OH 43224, USA. Do đó Tòa án nhân dân tỉnh An Giang thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 34, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về nội dung vụ án:

Giữa bà S với ông V có mối quan hệ là chị em ruột. Theo nguyên đơn bà S trình bày, từ năm 2006, do bà đang định cư tại Mỹ, luật pháp thời kỳ đó không cho phép người nước ngoài được đứng tên Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, và không trực tiếp mua đất được nên bà gửi tiền USD về Việt Nam cho ông V để nhờ ông V mua khu nhà trọ và đứng tên giùm để cho thuê, tạo thu nhập. Cụ thể từ năm 2006 đến năm 2008 bà đã chuyển tiền USD nhiều lần cho ông V thông qua Ngân hàng Vietcombank tại Việt Nam để ông V nhận tiền và thỏa thuận mua khu nhà trọ có sẵn, gắn liền với đất của vợ chồng ông Trịnh Văn H, Trương Thị Tuyết N tọa lạc tại phường M, thành phố L, tỉnh An Giang với số tiền 1.800.000.000 đồng và nhờ ông V đứng tên giùm nhà, đất, như sau:

+ Diện tích 200m2 đất ở đô thị, thửa số 218, tờ bản đồ số 27 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H01616dA, do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 15/02/2008 cho ông Trần Quang V đứng tên;

+ Diện tích 198,1m2 đất trồng cây lâu năm, thửa số 267, tờ bản đồ số 27 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H01615dA, do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 15/02/2008 cho ông Trần Quang V đứng tên;

+ Diện tích 49,1m2 đất trồng cây lâu năm, thửa số 266, tờ bản đồ số 27 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H01614dA, do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 15/02/2008 cho ông Trần Quang V đứng tên.

Sau khi ông V mua đất, đứng tên thì bà S tiếp tục làm nhà trọ lấy tên “Ngọc Sương” để cho thuê và có nhờ ông V trông coi, hàng tháng trả tiền công cho ông V 4.000.000 đồng/tháng. Nhưng đến năm 2013, ông V lần lượt chuyển nhượng tất cả các quyền sử dụng đất trên sang qua cho các con của ông V mà không thông qua ý kiến của bà S, như: Ngày 20/12/2013, ông V lập hợp đồng tặng cho đất sang qua cho 02 người con ruột là Trần Quang N và Trần Quang C, có công chứng của Văn phòng Công chứng Long Xuyên, cụ thể anh N được tặng cho diện tích 200m2 đất ở đô thị, còn anh Cường được tặng cho diện tích 198,1m2 đất trồng cây lâu năm.

Ngày 06/01/2014, anh N được Ủy ban nhân dân thành phố L sang tên, cấp giấy số CH04144, diện tích 200m2 đất ở đô thị; còn anh Cường thì ngày 08/01/2014, được sang tên, cấp giấy số CH04242, diện tích 198,1m2 đất trồng cây lâu năm.

Năm 2018, anh N xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 200m2 đất ở đô thị, với lý do giấy bị thất lạc. Ngày 10/12/2018, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang ra Quyết định số 1362, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH04144 do ông N đứng tên để cấp lại bản nhì.

Ngày 11/12/2018, anh N được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp bản nhì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06595 diện tích 200m2 đất ở đô thị.

Tiếp theo ngày 30/5/2019, ông V lập hợp đồng tặng cho đất sang qua cho anh Trần Quang C, diện tích 41,9m2 đất trồng cây lâu năm, có công chứng của Văn phòng Công chứng Long Xuyên. Ngày 14/6/2019, anh Cường được Sở tài nguyên và môi trường tỉnh An Giang sang tên, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06722 diện tích 41,9m2 đất trồng cây lâu năm.

Tháng 7 năm 2019, anh Cường xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 198,1m2, với lý do giấy bị thất lạc. Ngày 02/7/2019, Sở tài nguyên và môi trường tỉnh An Giang ra quyết định số 881, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH04242 do ông C đứng tên để cấp lại bản nhì. Ngày 03/7/2019, anh Cường được Sở tài nguyên và môi trường tỉnh An Giang cấp bản nhì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06732 diện tích 198,1m2 đất trồng cây lâu năm.

Đến ngày 07/8/2019, anh N lập hợp đồng tặng cho 48,3m2 (nằm trong diện tích 200m2 đất ở đô thị thuộc giấy số CS06595) sang qua cho em ruột là Trần Thị Mộng T, có công chứng của Văn phòng Công chứng Long Xuyên. Ngày 10/9/2019, anh N, chị T được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang điều chỉnh lại giấy, như: chị T được sang tên, cấp giấy CS06767 diện tích 48,3m2 thửa 473, tờ bản đồ 27, còn anh N được cấp giấy CS06768 diện tích 151,7m2 thửa 218, tờ bản đồ 27.

Sau khi bà S phát hiện việc ông V tự ý tặng cho con các tài sản thuộc quyền sở hữu của bà Sang và xảy ra tranh chấp thì anh Cường, anh N tự nguyện giao 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của 02 anh đứng tên đưa cho bà S giữ nên bà S yêu cầu ông V, anh Cường, anh N, chị T cùng giao trả lại cho bà các quyền sử dụng đất trên nhưng phía ông V, anh Cường, anh N, chị T không đồng ý. Ngày 25/7/2019, ngày 09/9/2019, ngày 21/11/2019, bà S khởi kiện, yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang giải quyết buộc ông Trần Quang V, anh Trần Quang C, chị Trần Thị Mộng T, anh Trần Quang N giao trả lại cho bà căn nhà, gắn liền với đất và các quyền sử dụng đất tại các thửa đất mà ông V đứng tên giùm theo bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 08/5/2020 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Long Xuyên lập; đồng thời, bà yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngăn chặn, cấm chuyển dịch các thửa đất trên và yêu cầu hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh Cường, anh N, chị T đang đứng tên.

Ngày 21/11/2019, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang ra Quyết định số 10, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm anh Cường, chị T, anh N không được chuyển đổi, chyển nhượng, cho thuê, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với các thửa đất đang tranh chấp. Các bị đơn như ông V thì không ý kiến đối với khởi kiện của bà S; còn anh Cường, anh N, chị T không đồng ý với khởi kiện của bà S và cho rằng, tài sản đang tranh chấp do các anh chị được cha ruột ông V tặng cho hợp pháp, còn việc giữa ông V với bà S thỏa thuận đứng tên giùm như thế nào thì không biết nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà S về việc đòi lại tài sản và các anh chị có yêu cầu Tòa án hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các thửa đất mà anh chị đang đứng tên vì đã sử dụng đất ổn định, xây dựng vật kiến trúc kiên cố trên đất được nhà nước thừa nhận.

Bị đơn là các ông Trần Quang N, ông Trần Quang C cho rằng tài sản các ông được nhận hợp pháp từ cha là ông Trần Quang V, còn sự việc giữa cha ông với bà S như thế nào thì các ông không biết và không có điều kiện để biết. Chính vì thế bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc đòi lại tài sản vì không có cơ sở pháp lý, do đã sử phần đất này ổn định lâu dài, xây dựng vật kiến trúc kiên cố trên đất được pháp luật, nhà nước thừa nhận.

[4] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy: [4.1] Về nguồn gốc tài sản tranh chấp:

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như:

Các bản trích sao kê của Ngân hàng Vietcombank xác nhận ngày 21/9/2020 thể hiện từ năm 2006 - 2008, bà S có gửi tiền (USD) về Việt Nam nhiều lần cho ông V trực tiếp nhận thông qua Ngân hàng Vietcombank tại Việt Nam.

Đơn xin xác nhận tài sản riêng ngày 02/5/2008 vợ chồng ông V, bà L thừa nhận “Tổng số 03 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chung 01 lô nhà. Hiện phân phòng và cho thuê, diện tích toàn bộ phân phòng cho thuê là 440m2. Tổng diện tích nhà gắn liền với đất là 440m2 đây là tài sản riêng của chị tôi là Suong Thị Walls số CMND 291644616, địa chỉ cư ngụ 307 CaRaBapple Ave.Howard.OHO.43.028 USA. Nay tôi xin xác nhận và ký tên phần đất trên là tài sản riêng của chị tôi là bà Suong Thị Walls và chị tôi được toàn quyền quyết định (không ai có quyền tranh chấp) và vợ chồng tôi cũng không có quyền thừa hưởng. Tôi làm đơn này nhờ sự chứng thật của chính quyền địa phương cho tôi được làm bằng. Thị trấn M, ngày 02 tháng 05 năm 2008…”.

Lời trình bày của ông Trần Văn S (người làm chứng đồng thời là anh em ruột với bà S, ông V) tại biên bản ghi lời khai của ông Sơn và tại phiên tòa sơ thẩm ông Sơn xác nhận như sau: “Bà S có gửi về số tiền là 1.800.000.000 đồng, do ông với ông V rút tiền và mua đất và nhà kho dựa bia của ông H có sẵn. Sau khi bà S nhận chuyển nhượng thì sửa lại nhà trọ sinh viên tên Ngọc Sương, có 31 phòng, ông V là người quản lý trực tiếp và báo cáo hàng tháng về cho tôi. Sau khi mua xong vào năm 2008, thì vài tháng sau đã xây dựng nhà trọ, tiền thu được từ nhà trọ tôi lấy hàng tháng, sau đó tôi đưa cho Cường con ông V để vào sổ tiết kiệm hằng tháng, sổ tiết kiệm do Cường đứng tên. Đến năm 2017, bà S có về Việt Nam thì ông V trình bày rằng nhà trọ cho thuê đã cũ kỹ, sinh viên không thuê nữa nên yêu cầu bà S cho ông V được thuê lại thời gian 05 năm, để mở quán bán, chi phí thuê là 10.000.000 đồng/tháng. Bà S không đồng ý cho ông V thuê, sau đó 01 tháng sau thì bà S về Mỹ, ông V tự ý sửa chữa nhà trọ sinh viên thành quán cà phê đang hoạt động hiện tại. Năm 2018, bà S tiếp tục về Việt Nam, đến gặp ông V để bàn bạc lại và ngăn cản ông V, thì con ông V là Nam cho rằng đất này là đất của ông V, Nam và các con ông V nên không chấp nhận ý kiến bà S. Sau đó, bà S ủy quyền cho Quý để khởi kiện. Ông V đứng tên ba giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau đó ông V chuyển lại cho các con hết ba giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà ông V đứng tên chuyển lại cho Nam và Cường thì bà S còn giữ.

Do đó Tòa án cấp sơ thẩm xác định nguồn gốc các quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất được hình thành từ nguồn tiền do bà Trần Thị S gửi về nhờ ông Trần Quang V mua của vợ chồng ông Trịnh Văn H, Trương Thị Tuyết N, với số tiền 1.800.000.000 đồng, sau đó nhờ ông Trần Quang V đứng tên trên giấy chứng nhận QSDĐ và xây dựng nhà trọ cho thuê là có căn cứ. Đồng thời chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị S (Suong T Walls); Tuyên xử cho bà Trần Thị S được quyền sử dụng diện tích 440m2 đất tọa lạc tại các thửa 285, 286, 473, 218, tờ bản dồ số 27, theo các điểm 25, 26, 27, 30, 31, 34, 33, 32, 29, 28 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 08/5/2020 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Long Xuyên lập; Và hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà là có căn cứ đúng quy định của pháp luật.

Tuy nhiên trong quá trình quản lý sử dụng đất và tài sản trên đất thì các bị đơn có công sức bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất nên mặc dù các bị đơn không có yêu cầu phản tố, nhưng cần phải dành cho họ quyền được yêu cầu, khởi kiện bằng một vụ án dân sự khác mới đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bị đơn. Cấp sơ thẩm không xem xét là có thiếu sót, cần được bổ sung.

[4.2] Về yêu cầu hủy vụ án:

Như nội dung vụ án mà các bên tranh chấp thì đây được coi là tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền trên đất, xuất phát từ hợp đồng (miệng) người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhờ người ở trong nước đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ mình. Do đó căn cứ điểm b Khoản 3 Điều 8 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thì không phải tiến hành hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp.

Do đó kháng cáo của các ông Trần Quang V, Trần Quang N, Trần Quang C và bà Trần Thị Mộng T không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với quan điểm của các Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn. Hội đồng xét xử nhận thấy: Đối với yêu cầu tính công sức cho phía bị đơn trong việc bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị tài sản theo tỷ lệ ½ giá trị tài sản, quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm các đương sự không có yêu cầu vì thế cấp sơ thẩm không xem xét là có căn cứ, nhưng yêu cầu trên là quyền lợi chính đáng và đúng quy định. Tuy nhiên căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự về phạm vi xét xử thì cấp phúc thẩm không xem xét yêu cầu mới mà chưa được cấp sơ thẩm xem xét mà dành quyền khởi kiện thành một vụ kiện dân sự khác. Đồng thời việc xét xử vắng mặt ông Trần Quang V cũng không thuộc trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

[5] Quan điểm của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Quan điểm của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn về việc giữ nguyên bản án sơ thẩm được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[8] Án phí dân sự phúc thẩm: Do đơn kháng cáo không được chấp nhận nên người kháng cáo phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1] Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các ông Trần Quang V, Trần Quang C, Trần Quang N và bà Trần Thị Mộng T. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 03/2021/DS-ET ngày 25 tháng 02 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang.

Căn cứ các Điều 34, Điều 34, Điều 92, Điều 148, Điều 165 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 1 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị S (Suong T Walls);

Bà Trần Thị S được quyền sử dụng diện tích 440m2 đất tọa lạc tại các thửa 285, 286, 473, 218, tờ bản dồ số 27, theo các điểm 25, 26, 27, 30, 31, 34, 33, 32, 29, 28 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 08/5/2020 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Long Xuyên lập;

Bà Trần Thị S được quyền sở hữu căn nhà trên đất, diện tích xây dựng 273,5m2, tại các điểm 11,12,13,14,24,1 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 08/5/2020 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Long Xuyên lập;

2. Hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:

- Diện tích 41,9m2, đất trồng cây lâu năm, thửa 286, tờ bản đồ 27, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06722 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp ngày 14/6/2019 cho anh Trần Quang C đứng tên;

- Diện tích 198,1m2, đất trồng cây lâu năm, thửa 285, tờ bản đồ 27, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06732 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp ngày 03/7/2019 cho anh Trần Quang C đứng tên;

- Diện tích 48,3m2, đất ở đô thị, thửa 473, tờ bản đồ 27, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06767 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp ngày 10/9/2019 cho bà Trần Thị Mộng T đứng tên;

- Diện tích 151,7m2, đất ở đô thị, thửa 218, tờ bản đồ 27, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06768 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp ngày 10/9/2019 do anh Trần Quang N đứng tên.

3. Buộc ông Trần Quang C trả lại cho bà Trần Thị S diện tích đất 198m2, thuộc thửa số 285, tờ bản đồ số 27, theo giấy chứng nhận QSDĐ số CS06732 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp ngày 03/7/2019 và diện tích 41,9m2, đất trồng cây lâu năm, thửa 286, tờ bản đồ 27 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06722, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp 14/6/2019. Hai diện tích đất thể hiện tại các điểm 33, 32, 31 và các điểm 29,30,31,32 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 08/5/2020 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Long Xuyên lập.

4. Buộc bà Trần Thị Mộng T trả lại cho bà Trần Thị S diện tích 48,3m2, đất ở đô thị thửa số 473, tờ bản đồ số 27, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS06767, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp 10/9/2019. Diện tích được thể hiện tại các điểm 29, 28,7, 30 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 08/5/2020 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Long Xuyên lập;

5. Buộc ông Trần Quang N trả lại cho bà Trần Thị S diện tích đất 151,7m2, số thửa 218, tờ bản đồ số 27, theo giấy chứng nhận QSDĐ số CS06768 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp 10/9/2019. Diện tích được thể hiện tại các điểm 28, 25, 26, 27 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 08/5/2020 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Long Xuyên lập;

6. Buộc ông Trần Quang V, anh Trần Quang C, chị Trần Thị Mộng T, anh Trần Quang N trả lại cho bà Trần Thị S căn nhà, gắn liền trên diện tích xây dựng là 273,5m2 tại các điểm 11, 12, 13, 14, 2, 14, 24, 1 đất tọa lạc tại phường M, thành phố L, tỉnh An Giang theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 08/5/2020 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Long Xuyên lập;

7. Ông Trần Quang V, anh Trần Quang C, chị Trần Thị Mộng T, anh Trần Quang N, Lê Gia P1, Lại Thị Kiều O, Trần Tuệ T1 được quyền lưu cư trong thời gian 06 tháng kể từ ngày bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật;

8. Bà Trần Thị S có trách nhiệm liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục kê khai, đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà theo quy định của pháp luật đối với căn nhà gắn liền với quyền sử dụng đất diện tích 440m2 tại các điểm 25, 26, 27, 30, 31, 34, 33, 32, 29, 28 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 08/5/2020 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Long Xuyên lập;

9. Không chấp nhận yêu cầu hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của anh Trần Quang C, chị Trần Thị Mộng T, anh Trần Quang N;

Tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 10, ngày 21/11/2019, của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang để bảo đảm thi hành án;

[2] Dành quyền khởi kiện cho các ông Trần Quang V, Trần Quang C, Trần Quang N và bà Trần Thị Mộng T một vụ kiện dân sự khác khi có yêu cầu về công sức bảo quản, giữ gìn, tôn tạo tài sản trên các quyền sử dụng đất giao lại cho bà Trần Thị S.

[3] Án phí dân sự phúc thẩm: Các ông Trần Quang V, Trần Quang C, Trần Quang N và bà Trần Thị Mộng T mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, được trừ mỗi người 300.000 đồng vào tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo các biên lai thu số: 0009477 ngày 17/3/2021 (Trần Quang C), 0009464 ngày 11/3/2021 (Trần Thị Mộng T), 0009462 ngày 5/3/2021 (Trần Quang N), 0009486 ngày 6/4/2021 (Trần Quang V) của Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang.

[4] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sở hữu nhà và đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 186/2022/DS-PT

Số hiệu:186/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:29/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về