TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 568/2022/DS-PT NGÀY 09/09/2022 VỀ TRANH CHẤP QSDĐ, YÊU CẦU THÁO DỠ HÀNG RÀO VÀ HỦY MỘT PHẦN GIẤY CHỨNG NHẬN QSDĐ
Trong các ngày 06 và ngày 09 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 220/2022/TLPT-DS, ngày 07 tháng 7 năm 2022 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu tháo dỡ hàng rào và hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.Do bản án dân sự sơ thẩm số 62/2022/DS-ST ngày 02 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 3958/2022/QĐPT-DS ngày 20 tháng 7 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 10757/2022/QĐ-PT ngày 16 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Trương Hòa S, sinh năm: 1943 (chết năm 2017); Địa chỉ: Số X ấp Y, xã Z, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn:
- Bà Lê Thị B, sinh năm: 1943; Vắng mặt;
- Bà Trương Thị Thùy T, sinh năm 1969; Người đại diện theo pháp luật: Bà Lê Thị B, sinh năm 1943; Vắng mặt.
- Ông Trương Hùng D, sinh năm: 1967 (chết, không C vợ con);
- Ông Trương Hòa Q, sinh năm: 1976; Có mặt;
- Ông Trương Hòa P, sinh năm 1978; Vắng mặt
- Bà Trương Thị Ngọc T, sinh năm: 1981; Vắng mặt Cùng địa chỉ: Số X ấp Y, xã Z, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh;
- Bà Trương Thị Hòa M, sinh năm: 1965; địa chỉ: Số X ấp Y, xã Z, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh; Có mặt;
- Ông Trương Tuấn K, sinh năm: 1972; địa chỉ: Số X ấp Y, xã Z, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh; Có mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn C; sinh năm: 1953 (chết năm 2020); Địa chỉ: số X ấp Y xã Z huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh;
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn:
- Ông Nguyễn Hữu T, sinh năm: 1976; Có mặt;
- Ông Nguyễn Hữu Đ, sinh năm: 1978; Có mặt;
- Bà Nguyễn Thị Ngọc M, sinh năm: 1980; Có mặt;
Cùng địa chỉ: Số X. ấp Y, xã Z, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Nguyễn Hữu T, sinh năm: 1976; Có mặt;
- Ông Nguyễn Hữu Đ, sinh năm: 1978; Có mặt;
- Bà Nguyễn Thị Ngọc M, sinh năm: 1980; Có mặt;
- Bà Nguyễn Thị Phương N, sinh năm: 1984; Có mặt;
Cùng địa chỉ: Số X ấp Y, xã Z, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Ông Trương Hòa Q, sinh năm: 1976; Địa chỉ:, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh; Có mặt;
- Ông Trương Tuấn K, sinh năm 1972; Địa chỉ: Số X, ấp Y, xã Z, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh; Có mặt;
- Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn Thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ: Số X đường Y, thị trấn Hóc Môn, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh; Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị X– Chuyên viên Phòng tài nguyên và Môi trường; Vắng mặt.
4. Người kháng cáo: người kế thừa quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn là ông Trương Hòa Q, bà Trương Thị Hòa M, ông Trương Tuấn K.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện của ông Trương Hòa S và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Trương Hòa S gồm các ông bà: Lê Thị B, Trương Hòa Q, Trương Hòa P, Trương Thị Ngọc T, Trương Thị Hòa M, Trương Thị Thùy T (do bà Lê Thị B đại diện theo pháp luật) trình bày:
Ngày 03/7/1959, bà Dương Thị T (mẹ của ông Trương Hòa S) nhận chuyển nhượng của ông Trương Văn B phần đất có diện tích 11.960m2 (không đo đạc thực tế) địa bộ số X thuộc Tân Thới Đông tờ 2 và Tân Hiệp tờ 1, tọa lạc tại xã Z huyện Hóc Môn. Hai bên có lập Tờ bán đứt đất ngày 03/7/1959, có xác nhận của Hội đồng xã Z Năm 1967, bà T có phân lô cho các con mỗi người một phần đất để trồng hoa màu (chỉ cho canh tác), trong đó bà T có cho bà Trương Thị Y (mẹ của ông Nguyễn Văn C) một phần đất có vị trí ở giữa phần đất của ông S và bà Trương Thị T.
Phần đất trên ông S và bà Y sử dụng để trồng hoa màu, có chia ranh giới là giếng nước ở giữa hai phần đất. Năm 1976, ông S chuyển sang trồng cây Bạch đàn.
Đến năm 1980, bà Y có xin bà T cho ông C cất căn nhà tôn, vách đất trong phần đất của bà Y và được bà T đồng ý. Vị trí căn nhà nằm phía trước căn nhà hiện nay của ông C, sát với phần đất của bà T.
Sau đó, ông C bắt đầu làm hủ tiếu và làm sàn nước để cối xay bột lấn sang phần đất của ông S khoảng 4m tính từ giếng nước. Lúc đó, hàng Bạch đàn sát với sàn nước.
Năm 1982, ông C tự ý đi đăng ký kê khai phần đất 1.712m2. Năm 1987, ông C xây nhà tường gạch mái ngói như hiện nay và dời lò hủ tiếu ra phía sau nhà ông C.
Năm 1999, bà T có họp gia đình để tương phân đất cho con cháu. Căn cứ Tờ tương phân đất lập ngày 08/8/1999, bà T phân chia diện tích đất như sau:
Ông Trương Hiếu K, ông Trương Hòa S, bà Trương Thị T, ông Trương Duy Lvà ông Trương Văn H (các con của bà T) mỗi người 2.000m2.
Ông Nguyễn Văn C, ông Trần Văn C và bà Trương Thị Hòa M (các cháu của bà T) mỗi người 653m2.
Năm 2000, ông S rào lưới B40 làm ranh giới giữa phần đất của ông S và ông C. Lúc ông S làm hàng rào, ông C và vợ là bà Nguyễn Thị B xin ông S 2m ngang tính từ cái giếng nước để làm đường đi xuống lò hủ tiếu ở phía sau và được ông S đồng ý.
Năm 2003, gia đình ông S phát hiện ông C kê khai đăng ký phần đất ông S được bà T cho.
Năm 2006, ông S xây dựng tường rào bằng gạch tại vị trí lưới B40 trước đây, ông C không C ý kiến phản đối. Mặc dù ông C được cấp giấy phần đất này nhưng thực tế do gia đình ông S sử dụng phơi hủ tiếu.
Năm 2010, ông S đề nghị ông C cho mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là GCN) để điều chỉnh lại phần đất bà T cho ông S trong GCN của ông C nhưng ông C tìm nhiều lý do để né tránh.
Ngày 21/01/1995, ông S được cấp GCN đối với thửa 274, tờ bản đồ (TBĐ) số 8, diện tích 912m2, tọa lạc xã Z huyện Hóc Môn. Tuy nhiên, phần đất này là phần đất bà T cho ông Trương Hiếu K nhưng cấp nhầm cho ông S.
Ngày 01/4/1996, ông C được cấp GCN đối với thửa số 348, TBĐ số 8, diện tích 1.712m2 tọa lạc xã Z huyện Hóc Môn. Tuy nhiên, phần đất ông C được bà T cho là 653m2 cộng với phần đất ông C xin ông S làm lối đi ra phía sau, tổng cộng khoảng 1.000m2 (phần đất có nhà của ông C), còn lại phần đất trống khoảng 700m2 tính từ tường rào trở ra là đất của ông S được bà T cho nhưng cấp nhầm cho ông C.
Theo bản đồ hiện trạng vị trí áp ranh ngày 01/10/2015 của Trung tâm đo đạc thì phần đất của ông S cấp nhầm cho ông C diện tích đo đạc thực tế là 684,4m2 (vị trí số 8, 10, 13).
Ông S là nguyên đơn chết năm 2019. Nay bà B, bà T, bà M, ông K, bà T, ông P, ông Q (là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông S) yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết:
- Xác định ông S là chủ sử dụng phần diện tích 684,4m2 (gồm vị trí số 8, 10, 13) thuộc một phần thửa 348, TBĐ số 8 (nay là thửa 28, TBĐ số 46) tọa lạc xã Z huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C 013944, số vào sổ cấp GCNQSDĐ 01187QSDĐ/21-11-1995 do UBND huyện Hóc Môn cấp cho ông Nguyễn Văn C đối với phần diện tích 684,4m2.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Văn C và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông C gồm: Ông Nguyễn Hữu T, ông Nguyễn Hữu Đ, bà Nguyễn Thị Ngọc M trình bày:
Nguồn gốc thửa đất số 348, diện tích 1.712m2, TBĐ số 8, tọa lạc xã Z huyện Hóc Môn (trong tổng diện tích 11.960m2) là của bà Dương Thị T nhận chuyển nhượng của ông Trương Văn B năm 1959.
Sau khi nhận chuyển nhượng của ông B, bà T có chia đất cho con cháu mỗi người một phần, trong đó ông C được bà T cho 2.000m2. Từ năm 1982, ông C đã kê khai phần đất này và sử dụng liên tục từ đó cho đến nay. Trong đó một phần ông C xây nhà để ở, phần còn lại làm lò hủ tiếu, đào giếng nước và làm chuồng nuôi heo. Sau này, ông C dời lò hủ tiếu và chuồng heo ra phía sau nhà, còn lại phần đất trống hiện nay đang tranh chấp.
Khi làm thủ tục xin cấp giấy, ông C cùng với bà T tới Ủy ban nhân dân xã Z kê khai. Đến ngày 01/4/1996, ông C được Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn cấp giấy chứng nhận đối với thửa 348, TBĐ số 8, diện tích 1.712m2.
Trong quá trình giải quyết vụ án thì ông C chết. Nay ông Đ, ông T, bà M là những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông C không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc công nhận ông S là chủ sử dụng phần đất có diện tích 684,4m2 (vị trí số 8, 10, 13) thuộc một phần thửa 348 vì phần đất này ông C được bà T cho từ trước năm 1980, ông C đã trực tiếp quản lý, sử dụng, kê khai, đăng ký và được cấp GCN theo đúng quy định pháp luật. Ngoài ra, các ông bà có yêu cầu phản tố buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông S có nghĩa vụ tháo dỡ, đập bỏ tường rào bằng gạch xây dựng trên thửa 348.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trương Hòa Q và ông Trương Tuấn K trình bày: Các ông thống nhất với lời trình bày và yêu cầu của ông S. Hiện nay, phần đất tranh chấp hiện trạng là đất trống, ông Q và ông K sử dụng để phơi hủ tiếu.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Hữu T, ông Nguyễn Hữu Đ, bà Nguyễn Thị Ngọc M, bà Nguyễn Thị Phương N trình bày: Các ông bà không yêu cầu gì thêm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn do bà Nguyễn Thị X đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ngày 01/4/1996, ông Nguyễn Văn C được UBND huyện Hóc Môn cấp GCN đối với phần diện tích 1.712m2 thuộc thửa 348, TBĐ số 8 (TL 1989) xã Z theo Quyết định số 140/QĐ-UB ngày 21/11/1995 của UBND huyện Hóc Môn.
Theo Báo cáo số 586/UBND ngày 03/5/2017 của UBND xã Z thì tình hình kê khai đăng ký đối với phần đất trên như sau:
Theo tài liệu năm 1989: Đất thuộc thửa 348, TBĐ số 8, xã Z ông Nguyễn Văn C kê khai trong sổ mục kê của UBND xã Z.
Theo tài liệu năm 2004 (sổ dã ngoại): Phần đất trên thuộc thửa 28, 29, TBĐ số 46, ông Trương Hòa S có tên kê khai trong sổ dã ngoại của UBND xã Z. Hiện trạng phần đất đang tranh chấp là đất trống có ranh rào ổn định do ông Trương Hòa S phơi bánh tráng.
Việc cấp GCN cho ông Nguyễn Văn C đối với thửa 348 tại thời điểm đó không đo vẽ hiện trạng thực tế, chỉ căn cứ tài liệu kê khai đăng ký nên có thể diện tích chưa chính xác.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 62/2022/DS-ST ngày 02-3-2022, Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn quyết định:
Áp dụng các Điều 26, 34, 35, 39, 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 32 Luật tố tụng hành chính năm 2015; Khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 về việc thi hành Luật tố tụng hành chính.
Áp dụng Luật đất đai năm 1993; Luật người cao tuổi;
Áp dụng Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 quy định về án phí, lệ phí Toà án; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trương Hòa S (người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông S gồm các ông bà Lê Thị B, Trương Thị Thùy T, Trương Hòa Q, Trương Hòa P, Trương Thị Ngọc T, Trương Thị Hòa M, Trương Tuấn K) về việc xác định ông Trương Hòa S là chủ sử dụng đối với phần đất 684,4m2 (ký hiệu vị trí số 8, 10, 13) thuộc một phần thửa đất số 348, TBĐ số 8, tọa lạc xã Z, huyện Hóc Môn và hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C 013944 do UBND huyện Hóc Môn cấp cho ông Nguyễn Văn C ngày 01/4/1996 đối với phần diện tích 684,4m2 nói trên.
(Theo Bản đồ hiện trạng vị trí-xác định ranh số hợp đồng 99165/CNHM- CC ngày 01/10/2015 của Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh).
2. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Văn C gồm ông Nguyễn Hữu T, Nguyễn Hữu Đ, bà Nguyễn Thị Ngọc M về việc yêu cầu những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Trương Hòa S (gồm các ông bà Lê Thị B, Trương Thị Thùy T, Trương Hòa Q, Trương Hòa P, Trương Thị Ngọc T, Trương Thị Hòa M, Trương Tuấn K) có nghĩa vụ tháo dỡ, đập bỏ tường rào bằng gạch có chiều dài 55,17m2 trên thửa đất số 348, TBĐ số 8, tọa lạc xã Z, huyện Hóc Môn.
Buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Trương Hòa S gồm các ông bà Lê Thị B, Trương Thị Thùy T, Trương Hòa Q, Trương Hòa P, Trương Thị Ngọc T, Trương Thị Hòa M và Trương Tuấn K có nghĩa vụ tháo dỡ, đập bỏ tường rào bằng gạch có chiều dài 55,17m2 trên thửa đất số 348 nói trên.
(Theo Bản đồ hiện trạng vị trí – giáp ranh số hợp đồng 99165/CN HM-CC ngày 01/10/2015 của Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh).
3. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Hữu T, ông Nguyễn Hữu Đ, bà Nguyễn Thị Ngọc M về việc trả lại giá trị tường rào với số tiền là 7.110.310 đồng cho các ông bà Lê Thị B, Trương Thị Thùy T, Trương Hòa Q, Trương Hòa P, Trương Thị Ngọc T, Trương Thị Hòa M và Trương Tuấn K.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự.
Ngày 10 tháng 3 năm 2022, những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Trương Hòa S gồm các ông bà: Trương Thị Hòa M, Trương Tuấn K và Nguyễn Hòa Q kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 62/2022/DS-ST ngày 02-3-2022 củaTòa án nhân dân huyện Hóc Môn, đề nghị tòa phúc thẩm sửa toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn - ông Trương Hòa S là ông Nguyễn Hòa Q, bà Trương Thị Hòa M , ông Trương Tuấn K không rút đơn kháng cáo. Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn - ông Trương Hòa S không rút đơn khởi kiện. Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bị đơn - ông Nguyễn Văn C là các ông bà: ông Nguyễn Hữu T, Nguyễn Hữu Đ, bà Nguyễn Thị Ngọc M không rút yêu cầu phản tố. Các đương sự không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác so với các tài liệu, chứng cứ đã cung cấp tại cấp sơ thẩm. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn - ông Trương Hòa S là ông Nguyễn Hòa Q, bà Trương Thị Hòa M, ông Trương Tuấn K trình bày:
Nguồn gốc đất tranh chấp là của bà T mua của ông Phùng từ năm 1959. Năm 1967, bà T phân đất bằng miệng cho các con cháu sử dụng. Bà T phân đất không đo vẽ để xác định vị trí, ai sử dụng phần nào thì tự đăng ký kê khai quyền sử dụng đất phần đó. Phần đất tranh chấp là phần đất bà T cho ông S và ông S sử dụng từ trước năm 1975 để trồng Bạch Đàn và trồng mía. Sau đó năm 1978 bà T cho gia đình ông C sử dụng để làm lò hủ tíu, xây chuồng heo và giếng nước. Bà T không bán cũng không cho ông C phần diện tích đất tranh chấp. Phần diện tích đất tranh chấp là phần đất bà T cho ông S căn cứ vào Tờ tương phân đất lập ngày 08/8/1999. Năm 1982, ông C tự ý đăng ký kê khai quyền sử dụng đất ông S không biết. Năm 2006 ông S xây tường diện tích đất tranh chấp. Ông Q, bà M, ông K kháng cáo toàn bộ bản án dân sư sơ thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
* Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông C gồm ông Nguyễn Hữu T, ông Nguyễn Hữu Đ, bà Nguyễn Thị Ngọc M trình bày: Không đồng ý với kháng cáo của ông Q, ông K, bà M và đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở phúc thẩm như sau:
Về Đơn kháng cáo của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn: Đơn kháng kháng trong hạn luật định nên chấp nhận.
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong giai đoạn phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Tòa sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm Số 62/2022/DS-ST ngày 02/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của người kế thừa quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn là ông Nguyễn Hòa Q, bà Trương Thị Hòa M và ông Trương Tuấn K trong hạn luật định nên được chấp nhận.
[2] Về tố tụng:
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn - ông Trương Hòa S là bà Lê Thị B, bà Trương Thị Ngọc T, Ông Trương Hòa P, Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Ông Trương Hòa P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần tham gia phiên tòa xét xử phúc thẩm nhưng vắng mặt. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Biểu, bà T, ông P và Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn theo quy định tại Khoản 2 Điều 296 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung: Xét kháng cáo của người kế thừa quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn - ông Trương Hòa S là ông Nguyễn Hòa Q, bà Trương Thị Hòa M, ông Trương Tuấn K:
[3.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C 013944, số vào sổ cấp GCNQSDĐ 01187QSDĐ ngày 01/4/1996 do UBND huyện Hóc Môn cấp cho ông Nguyễn Văn C đối với phần diện tích 684,4m2; xác định ông S là chủ sử dụng phần diện tích đất 684,4m2 (gồm vị trí số 8, 10, 13) thuộc một phần thửa 348, TBĐ số 8 (nay là thửa 28, TBĐ số 46) tọa lạc xã Z, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh Phần đất tranh chấp có diện tích đo đạc thực tế là 684,4m2 (ký hiệu vị trí số 8, 10, 13) thuộc một phần thửa đất số 348, TBĐ số 8 (nay là thửa 28, Tờ bản đồ số 46), tọa lạc xã Z, huyện Hóc Môn theo Bản đồ hiện trạng vị trí-áp ranh, số hợp đồng 99165/CNHM-CC ngày 01/10/2015 của Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh.
- Về nguồn gốc đất tranh chấp: Căn cứ Tờ bán đứt đất ngày 03/7/1959 có xác nhận của Hội đồng xã Z giữa ông Trương Văn B và bà Dương Thị T, Công văn số 44/UBND ngày 10/01/2020 của Ủy ban nhân dân xã Z và sự thừa nhận của các đương sự thì diện tích đất 684m2 thuộc một phần thửa 348 có nguồn gốc từ thửa 549 (TL1919) do bà Dương Thị T nhận chuyển nhượng của ông Trương Văn Bùng.
- Về quá trình kê khai, đăng ký và cấp GCNQSDĐ: Tại Công văn số 44/UBND ngày 10/01/2020 của Ủy ban nhân dân xã Z có nội dung:
Theo tài liệu địa chính năm 1982: Thuộc một phần thửa 14, TBĐ số 4, diện tích 10.620m2 do bà Dương Thị T đăng ký kê khai sử dụng 8.620m2/10.620m2 và ông Nguyễn Văn C đăng ký kê khai sử dụng 2.000m2/10.620m2.
Theo tài liệu địa chính năm 1989: Khu đất thuộc 02 thửa, gồm một phần thửa đất số 274, TBĐ số 8, diện tích 912m2 do ông Trương Hòa S đăng ký kê khai và một phần thuộc thửa 348, TBĐ số 8, diện tích 1.712m2 do ông Nguyễn Văn C đăng ký kê khai.
Theo ý kiến trình bày của đại diện UBND huyện Hóc Môn: Theo tài liệu năm 1989, đất thuộc thửa 348, TBĐ số 8, xã Z ông Nguyễn Văn C kê khai trong sổ mục kê của UBND xã Z.
Ngày 21/01/1995, ông S được UBND huyện Hóc Môn cấp GCNQSDĐ đối với thửa 274, TBĐ số 8, diện tích 912m2.
Ngày 01/4/1996, ông C được UBND huyện Hóc Môn cấp GCNQSDĐ đối với thửa 348, TBĐ số 8, diện tích 1.712m2.
- Về quá trình quản lý, sử dụng đất tranh chấp:
Các đương sự xác nhận Thửa đất số 348, diện tích 1.712m2 (bao gồm phần đất 684,4m2) ông C sử dụng trước năm 1980. Một phần ông C xây nhà ở, hiện nay căn nhà vẫn còn, phần còn lại ông C làm lò hủ tiếu, đào giếng nước và xây chuồng nuôi heo. Năm 1987, ông C xây lại nhà gạch và dời lò hủ tiếu xuống phía sau nhà ông C. Phía nguyên đơn trình bày năm 2000, sau khi bà T lập tờ tương phân chia đất thì ông S rào lại phần đất tranh chấp này, Hiện tại đất tranh chấp ông K và ông Q sử dụng để phơi hủ tiếu.
Tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 10/9/2020, các bên đều xác định trên phần đất tranh chấp có giếng nước do ông Nguyễn Văn C đào nhưng hiện nay giếng nước không còn và không bên nào xác định được vị trí của giếng nước. Trên phần đất tranh chấp hiện nay vẫn còn hàng gạch là nền chuồng heo cũ.
Từ những căn cứ nêu trên có đủ cơ sở khẳng định ông Nguyễn Văn C là người trực tiếp quản lý, sử dụng phần đất diện tích 684,4m2 từ năm 1980. Năm 1982, ông C đăng ký kê khai quyền sử dụng đất và đến năm 1996 được cấp giấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi được cấp GCN, ông C vẫn tiếp tục sử dụng.
Phía nguyên đơn cho rằng phần đất tranh chấp trước đây ông S có trồng cây Bạch Đàn và ông C lấn qua phần đất này để làm lò hủ tiếu, giếng nước và chuồng heo nhưng không C tài liệu, chứng cứ chứng minh nên Hội đồng xét xử không C cơ sở để xem xét.
Tại Điều 2 Luật đất đai năm 1993 quy định: Người sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận thì được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Như vậy, ông C được Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ thửa 348, diện tích 1.712m2, trong đó bao gồm phần diện tích 684,4m2 là đúng quy định pháp luật.
Xét Tờ tương phân đất ngày 08/8/1999: Căn cứ nội dung Tờ tương phân ngày 08/8/1999, bà T phân chia cho các con của bà T gồm các ông bà Trương Hiếu K, Trương Hòa S, Trương Thị T, Trương Duy L, Trương Văn H mỗi người 2.000m2; chia cho các cháu gồm các ông bà Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn Chánh, Trương Thị Hòa M mỗi người 654m2. Tuy nhiên, năm 1982, bà T chỉ kê khai đăng ký 8.620m2 nhưng đến năm 1999 bà T mới tiến hành phân chia cho các con và các cháu 11.962m2 là không hợp lệ. Mặt khác, tại thời điểm bà T phân chia đất, ông S, ông C, ông Kvà một số người khác đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 1995, 1996. Tờ tương phân được lập ngày 08/8/1999, không C chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không C sơ đồ vị trí lô đất phân chia cho từng người. Do đó, không C cơ sở để xác định phần đất diện tích 684,4m2 chính là phần đất bà T cho ông Trương Hòa S.
Ngoài ra, ông S cho rằng phần đất tranh chấp là phần đất bà T cho ông S nhưng ông S không kê khai đăng ký. Năm 1995, ông S kê khai diện tích 912m2 thuộc thửa 274 (Có nguồn gốc đất cũng của bà T) và đã được Ủy ban nhân dân cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1995. Ông S trình bày phần đất này bà T cho ông Trương Hiếu K, có vị trí tiếp giáp phía sau phần đất tranh chấp cơ quan nhà nước cấp nhầm cho ông S nhưng từ khi ông S được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông S và ông Không cũng không C ý kiến gì về việc này. Đến năm 1996, ông C được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 348, diện tích 1.712m2, ông S cũng không C ý kiến. Do đó, lời trình bày của ông S Hội đồng xét xử không C cơ sở để xem xét.
Từ những phân tích trên, Tòa cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn về việc hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C 013944, số vào sổ cấp GCNQSDĐ 01187QSDĐ ngày 01/4/1996 do UBND huyện Hóc Môn cấp cho ông Nguyễn Văn C đối với phần diện tích 684,4m2; xác định ông S là chủ sử dụng phần diện tích đất 684,4m2 (gồm vị trí số 8, 10, 13) thuộc một phần thửa 348, TBĐ số 8 (nay là thửa 28, TBĐ số 46) tọa lạc xã Z, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ.
[3.2] Xét yêu cầu phản tố của phía bị đơn về việc buộc phía nguyên đơn tháo dỡ, đập bỏ hàng rào:
Ông C được UBND huyện Hóc Môn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 348, TBĐ số 8, diện tích 1.712m2 là đúng quy định pháp luật. Gia đình ông Nguyễn Văn C đã có quá trình trực tiếp quản lý, sử dụng thửa đất này. Do đó, ông S xây dựng hàng rào tường gạch trên thửa đất thuộc quyền sử dụng của ông C là không đúng quy định pháp luật. Do đó, Tòa cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phản tố của phía bị đơn, buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông S có nghĩa vụ tháo dỡ, đập bỏ hàng rào tường gạch đã xây dựng trên thửa 348 là có căn cứ.
Về chi phí xây dựng tường rào: Căn cứ Chứng thư thẩm định giá ngày 12/3/2021 thì tường rào xây gạch trị giá 7.110.310 đồng. Phía bị đơn tự nguyện trả lại cho phía nguyên đơn giá trị hàng rào với số tiền 7.110.310 đồng. Tòa cấp sơ thẩm ghi nhận sự tự nguyện này của phía bị đơn là có căn cứ.
Từ những phân tích nêu trên, Tòa cấp sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là đúng quy định pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm Số 62/2022/DS-ST ngày 02/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.
Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ nên chấp nhận.
[4] Về án phí - Án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn và bị đơn được miễn án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Hòa Q, bà Trương Thị Hòa M, ông Trương Tuấn K được miễn án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 296, Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Luật đất đai năm 2013; Căn cứ vào Luật Thi hành án dân sự;
Căn cứ Nghị quyết Số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn: Ông Nguyễn Hòa Q, bà Trương Thị Hòa M, ông Trương Tuấn K; giữ nguyên Bản án sơ thẩm Số 62/2022/DS-ST ngày 02/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trương Hòa S (người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Trương Hòa S gồm bà Lê Thị B, bà Trương Thị Thùy Trang, ông Nguyễn Hòa Q, ông Trương Hòa P, bà Trương Thị Ngọc T, bà Trương Thị Hòa M, ông Trương Tuấn K) về việc xác định ông Trương Hòa S là chủ sử dụng đối với phần đất 684,4m2 (ký hiệu vị trí số 8, 10, 13) thuộc một phần thửa đất số 348, TBĐ số 8, tọa lạc xã Z, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ CHí Minh và hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C 013944 do Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Nguyễn Văn C ngày 01/4/1996 đối với phần diện tích 684,4m2 nói trên.
(Theo Bản đồ hiện trạng vị trí-áp ranh số hợp đồng 99165/CNHM-CC ngày 01/10/2015 của Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh).
2. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Văn C gồm: ông Nguyễn Hữu T, ông Nguyễn Hữu Đ, bà Nguyễn Thị Ngọc M về việc yêu cầu những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Trương Hòa S (gồm các ông bà Lê Thị B, Trương Thị Thùy Trang, Nguyễn Hòa Q, Trương Hòa P, Trương Thị Ngọc T, Trương Thị Hòa M, Trương Tuấn K) có nghĩa vụ tháo dỡ, đập bỏ tường rào bằng gạch có chiều dài 55,17m2 trên thửa đất số 348, TBĐ số 8, tọa lạc xã Z, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.
Buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Trương Hòa S gồm các ông bà: Lê Thị B, Trương Thị Thùy T, Nguyễn Hòa Q, Trương Hòa P, Trương Thị Ngọc T, Trương Thị Hòa M và Trương Tuấn K có nghĩa vụ tháo dỡ, đập bỏ tường rào bằng gạch có chiều dài 55,17m2 trên thửa đất số 348 nói trên.
(Theo Bản đồ hiện trạng vị trí – áp ranh số hợp đồng 99165/CN HM-CC ngày 01/10/2015 của Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh).
3. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Hữu T, ông Nguyễn Hữu Đ, bà Nguyễn Thị Ngọc M về việc trả lại giá trị tường rào với số tiền là 7.110.310 (Bảy triệu một trăm mười nghìn ba trăm mười ) đồng cho các ông bà: Lê Thị B, Trương Thị Thùy T, Nguyễn Hòa Q, Trương Hòa P, Trương Thị Ngọc T, Trương Thị Hòa M và Trương Tuấn K.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
4. Về chi phí tố tụng:
- Chi phí đo đạc, định giá ngày 25/12/2015 và xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 11/8/2020: Nguyên đơn phải chịu chi phí này (đã nộp đủ).
- Chi phí thẩm định giá (theo Chứng thư thẩm định giá ngày 12/3/2021) và chi phí xem xét thẩm định tại chỗ ngày 10/9/2020: Bị đơn tự nguyện chịu (đã nộp đủ).
5. Về án phí :
5.1. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Trương Hòa S được miễn án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho bà Lê Thị B, bà Trương Thị Thùy T, bà Nguyễn Hòa Q, ông Trương Hòa P, bà Trương Thị Ngọc T, bà Trương Thị Hòa M, ông Trương Tuấn K (những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Trương Hòa S) tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp là 3.750.000 ( Ba triệu bảy trăm năm mươi nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AB/2014/0007129 ngày 23/12/2014 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Ông Nguyễn Văn C được miễn án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho ông Nguyễn Hữu T, ông Nguyễn Hữu Đ, bà Nguyễn Thị Ngọc M (những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Văn C) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2019/0077371 ngày 08/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn.
5.2. Án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Nguyễn Hòa Q, bà Trương Thị Hòa M, ông Trương Tuấn K được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp QSDĐ, yêu cầu tháo dỡ hàng rào và hủy một phần giấy chứng nhận QSDĐ số 568/2022/DS-PT
Số hiệu: | 568/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 09/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về