Bản án về tranh chấp QSDĐ; đòi tài sản là QSDĐ; yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và hủy giấy chứng nhận QSDĐ số 568/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 568/2023/DS-PT NGÀY 21/08/2023 VỀ TRANH CHẤP QSDĐ; ĐÒI TÀI SẢN LÀ QSDĐ; YÊU CẦU HỦY HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QSDĐ VÀ HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QSDĐ

Ngày 21 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số: 150/2023/TLPT-DS ngày 21 tháng 3 năm 2023 về tranh chấp quyền sử dụng đất; đòi tài sản là quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 43/2022/DS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1916/2023/QĐ-PT ngày 31 tháng 7 năm 2023; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Ng (Ng), sinh năm 1965; địa chỉ: Ấp 2, xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh, (có mặt);

Người đại diện theo ủy quyền của bà Ng (theo Giấy ủy quyền ngày 12/3/2021): Ông Võ Văn T, sinh năm 1967; địa chỉ: 4/5A, Khu phố 2, phường TP, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai, (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lê Huy V – Luật sư làm việc tại Công ty Luật TNHH MTV PMA, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt);

- Bị đơn: Bà Trần Thị Xuân Th, sinh năm 1979; địa chỉ: Số 174/91, NTT, Phường 3, Quận x, Thành Phố Hồ Chí Minh, (vắng mặt);

Người đại diện theo ủy quyền của bà Th (Theo Hợp đồng ủy quyền ngày 04/12/2021): Ông Nguyễn Lâm Q, sinh năm 1980; địa chỉ: Số 1/5A, khu phố N.A, thị trấn GD, huyện GD, tỉnh Tây Ninh, (có mặt);

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Th: Ông Trần Gia M – Luật sư làm việc tại Văn phòng Luật sư TGM, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai, (có mặt).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Phạm Văn Đ, sinh năm 1963, (vắng mặt);

2. Bà Phan Thị Ngọc M1, sinh năm 1964, (vắng mặt);

Cùng địa chỉ: Ấp BK, xã ĐT, thị xã TB, tỉnh Tây Ninh.

3. Bà Trần Thị Minh H, sinh năm 1947; địa chỉ: Số 278, Khu phố 2, phường Trung Dũng, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai, (vắng mặt);

Người đại diện theo ủy quyền của ông Đ, bà M1, bà H (theo Hợp đồng ủy quyền ngày 28/01/2021 và Hợp đồng ủy quyền ngày 04/12/2021): Ông Nguyễn Lâm Q, sinh năm 1980; địa chỉ: Số 1/5A, khu phố N.A, thị trấn GD, huyện GD, tỉnh Tây Ninh, (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà H, ông Đ và bà M1: Ông Trần Gia M – Luật sư làm việc tại Văn phòng Luật sư Trần Gia M, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai, (có mặt).

4. Ủy ban nhân dân (UBND) huyện GD, tỉnh Tây Ninh;

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn Nh – Chủ tịch UBND huyện GD, (xin vắng mặt).

- Người làm chứng:

1. Ông Trà Văn M2, sinh năm 1965; địa chỉ: Ấp CX, xã TP, huyện GD, tỉnh Tây Ninh, (vắng mặt).

2. Ông Trần Vũ Kh, sinh năm 1964; địa chỉ: Ấp 7, xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh, (vắng mặt).

3. Ông Trần Tứ H, sinh năm 1966; địa chỉ: Ấp 1, xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh, (vắng mặt).

4. Ông Trần Lê V, sinh năm 1977; địa chỉ: Ấp 2, xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh, (vắng mặt).

- Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Trần Thị Ng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 22/01/2021 và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn là bà Trần Thị Ng và người đại diện theo ủy quyền của bà Ng là ông Võ Văn T trình bày:

Vào ngày 28/12/1994, bà Trần Thị Ng có nhận chuyển nhượng phần đất diện tích 8m x 30m của ông Trần Văn T1 tọa lạc Ấp 2, xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh với giá 40 chỉ vàng 24K – 98%, có giấy tay mua bán. Bà Ng cùng mẹ là bà Trần Thị Th1 sử dụng ổn định từ khi mua cho đến nay. Cho đến khi ông Phạm Văn Đ và bà Phan Thị Ngọc M1 đến đập phá đòi nhà đất thì bà Ng mới phát hiện bà Trần Thị Xuân Th con của bà Trần Thị Minh H (bà H là dì của bà Ng) đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng phần đất này và chuyển nhượng cho ông Đ và bà M1.

Việc bà Trần Thị Minh H được cấp giấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) đối với phần đất này và tặng cho bà Th thì bà Ng và bà Th1 không biết, việc cấp GCNQSDĐ cho bà H, bà Th là hoàn toàn trái pháp luật, lý do:

+ Việc mua bán đất từ ông T1 là do bà Ng đứng tên trong giấy tờ mua bán, ông T là người trực tiếp viết giấy mua bán và cùng với bà Th1 giao vàng cho ông T1.

+ Vào ngày 13/10/2007, bà H đã lập 01 đơn xác nhận có nội dung: Bà Ng và bà Th1 đã đồng ý giao phần đất tranh chấp này cho bà H là hoàn toàn bị ép buộc. Bà Ng và bà Th1 đã sinh sống trên đất từ năm 1994 đến năm 2010 thì bà Th1 chết, hoàn tất nghĩa vụ đóng thuế cho địa phương.

+ Vào ngày 13/7/2007, bà Ng và bà Th1 có làm đơn đề nghị UBND huyện GD không cấp GCNQSDĐ cho bà H, nhưng chưa được giải quyết mà bà H vẫn được cấp GCNQSDĐ.

Do đó, bà Ng yêu cầu hủy GCNQSDĐ số BO700381 ngày 19/12/2013, thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tọa lạc xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh do UBND huyện GD cấp cho bà Trần Thị Xuân Th; hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Xuân Th với ông Phạm Văn Đ và bà Phan Thị Ngọc M1 vào ngày 08/10/2020 tại Văn phòng Công chứng LVT về việc chuyển nhượng thửa đất đang tranh chấp nêu trên. Về hậu quả hợp đồng bị hủy, bà Ng không yêu cầu Tòa án giải quyết; công nhận phần đất diện tích đất 245m2 thuộc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tại xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh là tài sản hợp pháp của bà Ng, do bà Ng nhận chuyển nhượng từ ông T1.

Đối với yêu cầu độc lập của ông Đ và bà M1, bà Ng không đồng ý. Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ và bà M1 thì bà Ng không yêu cầu bồi thường đối với cây trái có trên diện tích đất đang tranh chấp và không yêu cầu hỗ trợ di dời. Ngoài ra, không có yêu cầu gì thêm.

- Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn bà Trần Thị Xuân Th ủy quyền đại diện tham gia tố tụng cho ông Nguyễn Lâm Q trình bày:

Bà Trần Thị Minh H với bà Trần Thị Th1 là chị em ruột. Về nguồn gốc phần đất đang tranh chấp là do bà H, mẹ của bà Trần Thị Xuân Th, nhận chuyển nhượng trực tiếp từ ông Trần Văn T1 vào tháng 12/1994 và giao vàng cho ông T để trả tiền. Mục đích để xây nhà cho bà Th1 và bà Ng sinh sống, do bà Th1 bị bệnh lao phổi và bà Ng là người tàn tật. Khi lập giấy tờ mua bán thì nội dung không đúng, ghi bà Ng là người mua đất nên bà H không đồng ý. Sau đó, bà H đã giữ 02 bản giấy mua đất, đồng thời yêu cầu gia đình ông T1 ghi lại giấy mua bán đất cho đúng người mua đất là bà Trần Thị Minh H.

Sau khi mua đất, bà H đã bỏ tiền ra xây nhà, mua vật liệu xây dựng cất nhà cho bà Th1 và bà Ng ở là ở nhờ và được bà H cho tiền sinh hoạt.

Năm 2001, bà H phát hiện bà Th1 đi kê khai diện tích đất này và UBND huyện GD đã ban hành Quyết định số 337/QĐ-UBND ngày 21/11/2005 để cấp GCNQSDĐ cho nhiều hộ dân trong đó có bà Th1. Bà H đã khiếu nại và UBND huyện GD đã ban hành Quyết định số 430/QĐ-UBND ngày 28/9/2007 để điều chỉnh một phần quyết định và hủy bỏ hồ sơ đăng ký cấp GCNQSDĐ của bà Th1 do đăng ký không đúng chủ sử dụng đất. Bà Th1 và bà Ng đã nhận quyết định và không có ý kiến gì.

Bà H được cấp GCNQSDĐ diện tích 244,9m2, thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32 tọa lạc tại Ấp 2, xã BĐ, huyện GD vào ngày 28/01/2008. Do bà Th1 chết năm 2010, bà Ng là con bà Th1 bị tàn tật nên bà H vẫn để cho ở. Ngày 20/11/2013, bà H tặng cho bà Th phần đất này và bà Th được cấp GCNQSDĐ ngày 19/12/2013.

Ngày 08/10/2020, bà Th chuyển nhượng phần đất này cho ông Đ và bà M1, theo đó ông Đ và bà M1 được cấp GCNQSDĐ ngày 13/11/2020.

Đối với yêu cầu khởi kiện của bà Ng thì bà Th không đồng ý, với lý do: Phần đất diện tích 244,9m2, thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32 tọa lạc tại Ấp 2, xã BĐ, huyện GD là thuộc quyền sử dụng của bà H, bà H đã cho bà Th và bà Th đã chuyển nhượng cho ông Đ và bà M1. Đồng thời, phần đất này đã được giải quyết bằng Quyết định số 430/QĐ-UBND ngày 28/9/2007 của UBND huyện GD, tỉnh Tây Ninh. Bà Ng và bà Th1 đã nhận quyết định và không có khiếu nại hay khởi kiện vụ án hành chính, sự việc đã được giải quyết bằng 01 quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn Đ, bà Phan Thị Ngọc M1 cùng ủy quyền đại diện tham gia tố tụng cho ông Nguyễn Lâm Q trình bày:

Vào ngày 08/10/2020, vợ chồng ông Đ, bà M1 có nhận chuyển nhượng của bà Th 01 phần đất diện tích 244,9m2 tọa lạc tại Ấp 2, xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh với giá 850.000.000 đồng, có lập hợp đồng chuyển nhượng. Ông Đ và bà M1 đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tây Ninh cấp GCNQSDĐ số CY 339203 ngày 13/11/2020.

Nay ông Đ và bà M1 yêu cầu bà Ng di dời vật dụng cá nhân trả lại nhà và quyền sử dụng phần đất diện tích 244,9m2, thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32 tọa lạc tại Ấp 2, xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh cho ông Đ và bà M1. Ngoài ra, ông Đ và bà M1 không yêu cầu gì thêm.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 43/2022/DS-ST ngày 26/9/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã quyết định:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Ng (Ng) đối với bà Trần Thị Xuân Th về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” đối với phần đất diện tích 244,9m2 thuộc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tại xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Ng (Ng) đối với bà Trần Thị Xuân Th về việc “Tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, phần đất diện tích 244,9m2 thuộc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tại xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh vào ngày 08/10/2020 giữa ông Phạm Văn Đ, bà Phan Thị Ngọc M1 với bà Trần Thị Xuân Th tại Văn phòng Công chứng LVT.

3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Ng (Ng) đối với bà Trần Thị Xuân Th về việc “Tranh chấp yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO700381 diện tích phần đất 244,9m2 thuộc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tại xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh của UBND huyện GD cấp cho bà Trần Thị Xuân Th ngày 19/12/2013.

4. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của ông Phạm Văn Đ và bà Phan Thị Ngọc M1 đối với bà Trần Thị Ng (Ng) về việc “Tranh chấp đòi tài sản là quyền sử dụng đất”.

Buộc bà Trần Thị Ng (Ng) di dời vật dụng cá nhân trả cho ông Phạm Văn Đ và bà Phan Thị Ngọc M1 phần đất diện tích 244,9m2, thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32 tọa lạc tại Ấp 2, xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh (trên phần đất có căn nhà cấp 4, nhà tạm, bệ nước, giàn gác bồn nước) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY 339203 do ông Đ, bà M1 đứng tên ngày 13/11/2020.

Ông Đ, bà M1 có nghĩa vụ trả cho bà Ng (Ng) số tiền là 5.796.000 đồng (năm triệu bảy trăm chín mươi sáu nghìn đồng).

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về chi phí đo đạc, thẩm định và định giá tài sản, quyết định về án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 29/9/2022, nguyên đơn bà Trần Thị Ng có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết lại bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Ng.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn bà Trần Thị Ng và người đại diện theo ủy quyền là ông Võ Văn T tham gia phiên tòa trình bày, bà Ng kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết sơ thẩm lại vụ án. Vì Tòa án cấp sơ thẩm đã có vi phạm nghiêm trọng thủ tục do không đưa ông Võ Văn T vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Ng. Tòa án cấp sơ thẩm còn sử dụng Đơn xác nhận ngày 13/10/2007 nhưng là bản photo để giải quyết vụ án. Bà Ng kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết sơ thẩm lại vụ án, còn vì các lý do khác, cụ thể sẽ do Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nghi trình bày.

Luật sư Lê Huy V trình bày ý kiến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bà Trần Thị Ng, với nội dung:

Các đương sự bên nguyên đơn và bị đơn đều xác định phần diện tích tranh chấp có nguồn gốc là nhận chuyển nhượng của gia đình ông Trần Văn T1, ông Võ Văn T là người trực tiếp giao trả tiền vàng cho ông T1 vào năm 1994. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông T (hiện là người đại diện theo ủy quyền của bà Ng trong vụ án này) vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót, dẫn đến việc giải quyết vụ án chưa khách quan và toàn diện.

Hồ sơ vụ án thể hiện, bà Trần Thị Minh H không phải là người trực tiếp mua đất của ông T1; Hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho bà H không có bản chính Hợp đồng mua bán đất giữa ông T1 và bà H (do con gái ông T1 ghi lại và đã nộp khi khiếu nại việc cấp GCNQSDĐ cho bà Th1 vào năm 2007); như vậy là không có căn cứ để UBND huyện GD cấp GCNQSDĐ cho Bà H. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào Quyết định số 430/QĐ-UBND ngày 28/9/2007 của UBND huyện GD để công nhận quyền sử dụng đất tranh chấp cho bà H là chưa đủ căn cứ. Vì đây là quyết định hành chính chỉ có giá trị pháp lý đối với việc hủy hồ sơ đăng ký cấp GCNQSDĐ cho bà Ng, không đồng nghĩa là cơ sở pháp lý cho việc cấp GCNQSDĐ cho bà H.

Hồ sơ vụ án có tờ Đơn xác nhận ngày 13/10/2007 nhưng là bản photo, hiện nay không có bản chính để đối chiếu, về nội dung thì bà Ng không thừa nhận, bà Ng ký là do bị ép buộc. Toàn bộ các giấy tờ mà bà H (bà Th) cung cấp cho Tòa án cấp sơ thẩm đều không có bản chính, đều thất lạc. Như vậy, tính pháp lý và tính chính xác để xác định sự thật của những tài liệu, giấy tờ này là chưa đảm bảo.

Tòa án cấp sơ thẩm còn nhận định, mẹ con bà Ng không khiếu nại Quyết định số 430/QĐ-UBND ngày 28/9/2007 của UBND huyện GD để cho rằng, các đương sự này đã thừa nhận diện tích đất họ đang ở là của bà H. Nhận định này là không phù hợp, vì khiếu nại hay không là quyền của các đương sự, mẹ con bà Ng không khiếu nại không đồng nghĩa với việc mẹ con bà Ng thừa nhận diện tích đất tranh chấp không phải là của họ.

Thực tế mẹ con bà Ng quản lý, sử dụng đất từ năm 1994 và đến nay bà Ng vẫn đang sinh sống trên đất. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ng, nhưng không xem xét công sức đóng góp cho bà Ng đối với việc trông giữ, cải tạo đất; về nhà ở trên đất cũng chưa đủ căn cứ để xác định ai là người xây dựng, ai là người hoàn trả giá trị căn nhà cho bà Ng, chi phí hỗ trợ di dời (nếu có)? Việc mua bán nhà đất giữa bà Trần Thị Xuân Th với vợ chồng ông Phạm Văn Đ, bà Phan Thị Ngọc M1 là chưa hoàn thành, các bên chưa giao nhà đất trên thực tế.

Từ những lý do và căn cứ nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị Ng, hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án về cho Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

Luật sư Trần Gia M trình bày ý kiến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn bà Trần Thị Xuân Th và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Minh H, ông Phạm Văn Đ và bà Phan Thị Ngọc M1, với nội dung:

Trong vụ án này, không cần thiết phải đưa ông Võ Văn T (hiện ông T đang là người đại diện theo ủy quyền của bà Ng) vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Phía nguyên đơn cho rằng, Tòa án cấp sơ thẩm sử dụng bản photo Đơn xác nhận ngày 13/10/2007 để giải quyết vụ án thì tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, phía bị đơn bà Trần Thị Xuân Th đã cung cấp được bản chính Đơn xác nhận ngày 13/10/2007 để Hội đồng xét xử phúc thẩm đối chiếu xem xét. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và quyết định không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Ng, chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của ông Phạm Văn Đ và bà Phan Thị Ngọc M1, buộc bà Ng di dời vật dụng cá nhân trả cho ông Đ và bà M1 phần đất diện tích 244,9m2, thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32 tọa lạc tại Ấp 2, xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh (trên phần đất có căn nhà cấp 4, nhà tạm, bệ nước, giàn gác bồn nước) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY 339203 do ông Đ, bà M1 đứng tên ngày 13/11/2020; ông Đ và bà M1 có nghĩa vụ trả cho bà Ng số tiền là 5.796.000 đồng (giá trị cây trái mẹ con bà Ng trồng trên đất), là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định pháp luật; các đương sự tham gia phiên tòa đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị Ng:

Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và quyết định, không chấp nhận khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Ng yêu cầu hủy GCNQSDĐ số BO700381 ngày 19/12/2013, thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tọa lạc xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh do UBND huyện GD cấp cho bà Trần Thị Xuân Th và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Xuân Th với ông Phạm Văn Đ và bà Phan Thị Ngọc M1 vào ngày 08/10/2020 tại Văn phòng Công chứng LVT về việc chuyển nhượng thửa đất tranh chấp trong vụ án, là có căn cứ, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án, đúng quy định pháp luật.

Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử vụ án và quyết định, chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của ông Phạm Văn Đ và bà Phan Thị Ngọc M1; buộc bà Trần Thị Ng (Ng) di dời vật dụng cá nhân trả cho ông Phạm Văn Đ và bà Phan Thị Ngọc M1 phần đất diện tích 244,9m2, thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32 tọa lạc tại Ấp 2, xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh (trên phần đất có căn nhà cấp 4, nhà tạm, bệ nước, giàn gác bồn nước) theo GCNQSDĐ số CY 339203 do ông Đ, bà M1 đứng tên ngày 13/11/2020; ông Đ, bà M1 có nghĩa vụ trả cho bà Ng (Ng) số tiền là 5.796.000 đồng, là không đúng. Vì tại khoản 1 Điều 3 của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 08/10/2020 thể hiện rõ: Bên chuyển nhượng bà Trần Thị Xuân Th có nghĩa vụ giao thửa đất cho Bên nhận chuyển nhượng ông Phạm Văn Đ và bà Phan Thị Ngọc M1 vào thời điểm Hợp đồng này được công chứng tại Văn phòng Công chứng LVT. Như vậy là việc giao diện tích đất 245m2 thuộc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tại xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh, không phải nghĩa vụ của bà Ng mà là nghĩa vụ của bà Th, nhưng bà Th chưa thực hiện nghĩa vụ này, nên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 08/10/2020 giữa bà Th với vợ chồng ông Đ, bà M1 chưa hoàn thành, các bên chưa giao nhận đất trên thực tế. Mặt khác, hiện nay bà Ng còn đang ở trên diện tích đất này có nhà ở, công trình và cây trái trên diện tích đất 245m2 thuộc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tại xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh, nhưng theo Hợp đồng thì ông Đ và bà M1 chỉ có thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà Th.

Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị Ng, sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn Đ, bà Phan Thị Ngọc M1.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Đơn kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị Ng nộp trong thời hạn và đúng thủ tục theo quy định của pháp luật nên hợp lệ, được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND huyện GD, tỉnh Tây Ninh, vắng mặt nhưng đã có Đơn xin vắng mặt nên Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vụ án vắng mặt đương sự này theo quy định tại khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra và tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền và thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị Ng:

[2.1] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Ng, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy;

[2.1.1] Trong vụ án này, nguyên đơn bà Trần Thị Ng cho rằng, diện tích đất 8m x 30m thuộc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tại xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh có nguồn gốc là của ông Trần Văn T1 (Năm Cò). Ngày 28/12/1994, bà Ng nhận chuyển nhượng phần diện tích này của ông T1 với giá 40 chỉ vàng 24K – 98%, hai bên có lập giấy tay mua bán (sau đây gọi tắt là diện tích đất tranh chấp). Sau khi nhận chuyển nhượng diện tích đất tranh chấp, bà Ng cùng với mẹ là bà Trần Thị Th1 quản lý, sử dụng xây nhà ở ổn định cho đến nay. Việc mua bán đất của ông T1 là do bà Ng đứng tên trong giấy tờ mua bán, ông T là người trực tiếp viết giấy mua bán và giao vàng cho ông T1, nhưng tờ giấy mua bán này đã bị bà Trần Thị Minh H đến nhà bà Ng tìm lục lấy mất. Đối với những lời trình bày nêu trên của bà Ng, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy;

[2.1.1a] Người chuyển nhượng diện tích đất có tranh chấp là ông Trần Văn T1 đã chết, vợ ông T1 là bà Lê Thị Tr xác định người mua đất là bà Trần Thị Ng. Tuy nhiên, lời trình bày của bà Tròn là có sự mâu thuẫn, vì tại thời điểm bà H khiếu nại ngày 11/7/2007, Cơ quan chuyên môn đã tiến hành xác minh bà Tròn trình bày: “Bà H là người mua đất và trực tiếp giao vàng cho ông 5 Cò chồng bà Tròn và là người đứng ra chỉ kiểu xây và mua bán vật tư của hàng ông Cẩm để xây nhà cho bà Th1, chị Nghi ở”. Con ông T1 là anh Trần Lê V xác nhận có ký tên bán đất cho bà Ng nhưng việc thỏa thuận và đưa tiền thì không biết, do cha anh trực tiếp thực hiện. Ngoài ra, còn có một số người làm chứng xác nhận người mua đất là mẹ con bà Ng, nhưng những người làm chứng này do phía nguyên đơn yêu cầu nên không đủ cơ sở xác định được tính khách quan của lời khai những người làm chứng này. Với những tài liệu, chứng cứ nêu trên không đủ cở sở để xác định, ngày 28/12/1994, bà Ng có nhận chuyển nhượng diện tích đất có tranh chấp của ông T1.

[2.1.1b] Hồ sơ vụ án thể hiện, có 03 tờ giấy mua bán đất viết tay đều đề cùng ngày 28/12/1994; trong đó, có 02 tờ giấy mua bán đất có nội dung giống nhau thể hiện người mua là bà Trần Thị Ng (tức Ng), có 01 giấy tên người mua đất là bà Trần Thị Minh H. Trong khi đó, bà Trần Thị Ng cho rằng giấy mua bán đất do bà Ng đứng tên người mua đã bị bà H lục lấy mất. Còn bà Trần Thị Minh H trình bày, khi phát hiện ra giấy mua bán đất ghi tên không đúng người mua thì bà H đã lấy lại từ bà Ng 01 bản, ông T1 01 bản, rồi sau đó yêu cầu con gái ông T1 viết lại 01 giấy khác có tên người mua là bà H. Hiện bản chính bà H đã nộp khi khiếu nại việc cấp GCNQSDĐ cho bà Th1. Ngày 24/8/2022, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành xác minh và thu thập hồ sơ cấp GCNQSDĐ của bà H vào năm 2008 nhưng hồ sơ đã bị thất lạc. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định, tất cả giấy mua bán đất có nội dung mâu thuẫn nhau, hồ sơ cấp GCNQSDĐ của bà H cũng bị thất lạc nên không thể kiểm tra; do đó, không có cơ sở đánh giá người mua đất qua các giấy tờ mua bán theo Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự, là đúng.

[2.1.1c] Trong quá trình ở trên diện tích đất tranh chấp, bà Trần Thị Th1 đã được cấp GCNQSDĐ đối với theo Quyết định số 337/QĐ-UBND ngày 21/11/2005 của UBND huyện GD, tỉnh Tây Ninh. Nhưng quyết định này cấp theo hồ sơ đăng ký xin cấp GCNQSDĐ của bà Th1 cùng với 129 hộ dân, bà H đã có khiếu nại và UBND huyện GD đã ban hành Quyết định 430/QĐ-UBND ngày 28/9/2007 có nội dung: “Điều chỉnh một phần quyết định và hủy bỏ hồ sơ đăng ký cấp GCNQSDĐ của bà Trần Thị Th1, trong Quyết định cấp GCNQSDĐ số 337/QĐ-UBND ngày 21/11/2005 của UBND huyện GD. Lý do: đăng ký không đúng chủ sử dụng đất. Giao trách nhiệm cho Trưởng Phòng Tài nguyên Môi trường và UBND xã BĐ lập hồ sơ đăng ký, xét cấp GCNQSDĐ đối với phần đất nói trên cho đúng chủ sử dụng”. Mẹ con bà Ng không khiếu nại quyết định này và cũng không khởi kiện vụ án hành chính. Ngày 28/01/2008, UBND huyện GD đã cấp GCNQSDĐ cho bà Trần Thị Minh H đối với diện tích đất tranh chấp. Qua đó, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định, mặc dù Hồ sơ cấp GCNQSDĐ của UBND huyện GD đối với diện tích đất có tranh chấp cho bà H đã bị thất lạc, nhưng Quyết định số 430/QĐ-UBND ngày 28/9/2007 của UBND huyên GD, tỉnh Tây Ninh có giá trị pháp lý, là đúng.

[2.1.1d] Hơn nữa, tại phiên tòa phúc thẩm, phía bị đơn đã cung cấp bản chính tờ Đơn xác nhận ngày 13/10/2007 của bà Th1 và bà Ng có nội dung: Mẹ con bà Ng cùng xác định nhà và đất là của dì N (bà H) mua và xây dựng từ năm 1994 cho mẹ con bà Ng ở chứ không phải của mẹ con bà Ng mua. Mẹ con bà Ng yêu cầu UBND và Ban Địa chính xã BĐ cấp GCNQSDĐ cho dì N của bà Ng là Trần Thị Minh H. Tại quá trình tham gia tố tụng giải quyết vụ án, bà Trần Thị Ng thừa nhận mẹ con bà Ng có ký vào tờ Đơn xác nhận ngày 13/10/2007 nhưng cho rằng việc ký này là do bị ép buộc, nhưng không có chứng cứ để chứng minh. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào nội dung của Đơn xác nhận ngày 13/10/2007 để xác định bà Ng đã thừa nhận phần đất này là do dì N (tức bà H) mua đất và cho mẹ con bà Ng ở nhờ, là đúng.

[2.1.1đ] Từ những nhận định và căn cứ nêu trên có đủ cơ sở xác định, bà Trần Thị Minh H là chủ sử dụng hợp pháp đối với diện tích đất 245m2 thuộc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tại xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh. Sau khi bà H được cấp GCNQSDĐ, đến ngày 20/11/2013, bà H lập Hợp đồng tặng cho bà Th phần đất này, theo đó bà Th đã được cấp GCNQSDĐ ngày 19/12/2013. Ngày 08/10/2020, bà Th lập Hợp đồng chuyển nhượng phần đất này cho ông Đ và bà M1, theo đó ông Đ và bà M1 được cấp GCNQSDĐ ngày 13/11/2020, là đúng quy định pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và quyết định: “Không chấp nhận khởi kiện của bà Trần Thị Ng yêu cầu hủy GCNQSDĐ số BO700381 ngày 19/12/2013, thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tọa lạc xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh do UBND huyện GD cấp cho bà Trần Thị Xuân Th; yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Th với ông Phạm Văn Đ và bà Phan Thị Ngọc M1 vào ngày 08/10/2020 tại Văn phòng Công chứng LVT về việc chuyển nhượng thửa đất đang tranh chấp nêu trên; yêu cầu công nhận phần đất diện tích đất 245m2 thuc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tại xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh là tài sản hợp pháp của bà Ng, do bà Ng nhận chuyển nhượng từ ông T1” là có căn cứ, đúng quy định pháp luật tại các Điều 167, 168, 188 Luật Đất đai năm 2013 và các Điều 501, 502, 503 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[2.1.2] Kháng cáo đối với phần bản án sơ thẩm xét xử và quyết định nêu trên của nguyên đơn bà Trần Thị Ng là không có cơ sở, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận.

[2.2] Đối với yêu cầu khởi kiện độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn Đ và bà Phan Thị Ngọc M1, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy;

[2.2a] Ông Phạm Văn Đ và bà Phan Thị Ngọc M1 nhận chuyển nhượng của bà Trần Thị Xuân Th diện tích đất 245m2 thuộc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tại xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh, theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 08/10/2020 tại Văn phòng Công chứng LVT, trong khi bà Ng vẫn đang ở trên diện tích đất này.

[2.2b] Trong quá trình tham gia tố tụng giải quyết vụ án, bị đơn bà Trần Thị Xuân Th trình bày về việc bà Ng tại căn nhà trên diện tích đất 245m2 thuộc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tại xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh, với lý do, bà Trần Thị Minh H với bà Trần Thị Th1 là chị em ruột; vào tháng 12/1994, bà H nhận chuyển nhượng đất của ông T1 với mục đích là để xây nhà cho bà Th1 và bà Ng sinh sống, do bà Th1 bị bệnh lao phổi và bà Ng là người tàn tật. Sau khi mua đất, bà H đã bỏ tiền ra xây nhà, mua vật liệu xây dựng cất nhà cho bà Th1 và bà Ng ở là ở nhờ và được bà H cho tiền sinh hoạt. Bà Th1 chết năm 2010, bà Ng là con bà Th1 bị tàn tật nên bà H vẫn để cho ở. Sau khi bà H được cấp GCNQSDĐ, đến ngày 20/11/2013, bà H lập Hợp đồng tặng cho bà Th phần đất này, theo đó bà Th đã được cấp GCNQSDĐ ngày 19/12/2013 và bà Th tiếp tục để cho bà Ng ở tại đây cho đến nay bà H và bà Th cũng chưa bao giờ có yêu cầu bà Ng trả lại nhà đất cho ở nhờ.

[2.2c] Ngày 08/10/2020, bà bà Trần Thị Xuân Th chuyển nhượng cho ông Phạm Văn Đ và bà Phan Thị Ngọc M1 diện tích đất 245m2 thuộc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tại xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh, theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 08/10/2020 tại Văn phòng Công chứng LVT, trong khi bà Ng vẫn đang ở nhờ trên diện tích đất này. Tại khoản 1 Điều 3 của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 08/10/2020 có ghi rõ thỏa thuận giữa hai bên: Bên A (Bên chuyển nhượng bà Trần Thị Xuân Th) có nghĩa vụ giao thửa đất tại Điều 1 của Hợp đồng này cùng giấy tờ về quyền sử dụng đất cho Bên B (Bên nhận chuyển nhượng ông Phạm Văn Đ và bà Phan Thị Ngọc M1) vào thời điểm Hợp đồng này được công chứng tại Văn phòng Công chứng LVT. Theo đó nhận thấy, việc giao diện tích đất 245m2 thuộc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tại xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh, không phải nghĩa vụ của bà Ng mà là nghĩa vụ của bà Th, nhưng bà Th chưa thực hiện nghĩa vụ này, nên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 08/10/2020 giữa bà Th với vợ chồng ông Đ, bà M1 chưa hoàn thành, các bên chưa giao nhận đất trên thực tế. Mặt khác, hiện nay còn có nhà bà Ng đang ở cùng với công trình và cây trái trên diện tích đất 245m2 thuộc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tại xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh, nhưng theo Hợp đồng thì ông Đ và bà M1 chỉ có thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà Th.

[2.2d] Từ những tài liệu, chứng cứ nêu trên Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở nhận thấy, yêu cầu của ông Phạm Văn Đ và bà Phan Thị Ngọc M1 về việc buộc bà Ng di dời vật dụng cá nhân trả cho ông Đ và bà M1 phần đất diện tích 244,9m2, thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32 tọa lạc tại Ấp 2, xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh (trên phần đất có căn nhà cấp 4, nhà tạm, bệ nước, giàn gác bồn nước) theo GCNQSDĐ số CY 339203 do ông Đ, bà M1 đứng tên ngày 13/11/2020, là chưa đủ căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và quyết định chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Đ và bà M1 là không đúng theo quy định tại Điều 500 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[2.2đ] Kháng cáo đối với phần bản án sơ thẩm xét xử và quyết định nêu trên của nguyên đơn bà Trần Thị Ng là có cơ sở, được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

[3] Từ những nhận định và căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận ý kiến quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm, chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị Ng, sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn Đ, bà Phan Thị Ngọc M1.

[4] Những ý kiến, quan điểm trình bày tại phiên tòa phúc thẩm của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bà Trần Thị Ng do chỉ có một phần là phù hợp với nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử phúc thẩm nên được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận về phần này.

[5] Những ý kiến, quan điểm trình bày tại phiên tòa phúc thẩm của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự bà Trần Thị Xuân Th, ông Phạm Văn Đ và bà Phan Thị Ngọc M1 đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm bác kháng cáo của bà Trần Thị Ng, giữ nguyên bản án sơ thẩm là không phù hợp với nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử phúc thẩm nên không được chấp nhận.

[6] Do sửa Bản án sơ thẩm nên phải xác định nghĩa vụ phải chịu chi phí đo đạc, thẩm định và định giá tài sản: Ông Phạm Văn Đ, bà Phan Thị Ngọc M1 phải chịu 30.500.000 đồng (ba mươi triệu năm trăm nghìn đồng). Ông Đ và bà M1 phải có nghĩa vụ trả lại cho bà Ng số tiền 30.500.000 đồng (ba mươi triệu năm trăm nghìn đồng) chi phí đo đạc, thẩm định và định giá tài sản do bà Ng đã nộp tạm ứng và chi phí xong.

[7] Do sửa Bản án sơ thẩm nên theo quy định tại khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định lại nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 1 Điều 26, khoản 1 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Nguyên đơn bà Trần Thị Ng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu khởi kiện không được Tòa án chấp nhận, nhưng bà Ng được miễn nộp do là người tàn tật, thuộc hộ nghèo địa phương xác nhận, theo qu y định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn Đ, bà Phan Thị Ngọc M1, theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu phản tố của các đương sự này không được Tòa án chấp nhận.

[8] Về án phí dân sự phúc thẩm: Đương sự kháng cáo bà Trần Thị Ng, theo quy định tại khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, không phải nộp.

[9] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

1- Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị Ng (Ng); sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 43/2022/DS-ST ngày 26/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh:

Căn cứ vào các Điều 500, 501, 502 Bộ luật Dân sự; các Điều 167, 168, 188 Luật Đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Ng (Ng) đối với bà Trần Thị Xuân Th về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” đối với phần đất diện tích 244,9m2 thuộc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tại xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Ng (Ng) đối với bà Trần Thị Xuân Th về yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, phần đất diện tích 244,9m2 thuộc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tại xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh vào ngày 08/10/2020 giữa ông Phạm Văn Đ, bà Phan Thị Ngọc M1 với bà Trần Thị Thu Thủy tại Văn phòng Công chứng LVT.

3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Ng (Ng) đối với bà Trần Thị Xuân Th về yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO700381 đối với diện tích đất 244,9m2 thuộc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32, tại xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh của Ủy ban nhân dân huyện GD cấp cho bà Trần Thị Xuân Th ngày 19/12/2013.

4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của ông Phạm Văn Đ và bà Phan Thị Ngọc M1 đối với bà Trần Thị Ng (Ng) về việc buộc bà Trần Thị Ng (Ng) di dời vật dụng cá nhân trả cho ông Phạm Văn Đ và bà Phan Thị Ngọc M1 phần đất diện tích 244,9m2, thửa đất số 81, tờ bản đồ số 32 tọa lạc tại ấp 2, xã BĐ, huyện GD, tỉnh Tây Ninh (trên phần đất có căn nhà cấp 4, nhà tạm, bệ nước, giàn gác bồn nước) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY 339203 do ông Đ, bà M1 đứng tên ngày 13/11/2020.

5. Về chi phí đo đạc, thẩm định và định giá tài sản: Ông Phạm Văn Đ, bà Phan Thị Ngọc M1 phải chịu 30.500.000 đồng (ba mươi triệu năm trăm nghìn đồng). Ông Đ và bà M1 phải có nghĩa vụ trả lại cho bà Ng (Ng) số tiền 30.500.000 đồng (ba mươi triệu năm trăm nghìn đồng) chi phí đo đạc, thẩm định và định giá tài sản do bà Ng (Ng) đã nộp tạm ứng và chi phí xong.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không chịu trả số tiền nêu trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án số tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự.

6. Về án phí dân sự sơ thẩm:

+ Bà Trần Thị Ng (Ng) được miễn án phí dân sự sơ thẩm do là người tàn tật, hộ nghèo.

+ Ông Phạm Văn Đ, bà Phan Thị Ngọc M1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng); nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0012766 ngày 28/01/2021của Chi cục Thi hành án dân sự huyện GD, tỉnh Tây Ninh; ông Đ, bà M1 đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

2- Về án phí dân sự phúc thẩm: Đương sự kháng cáo bà Trần Thị Ng (Ng) không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án Dân sự năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2014.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án là ngày 21 tháng 8 năm 2023./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp QSDĐ; đòi tài sản là QSDĐ; yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và hủy giấy chứng nhận QSDĐ số 568/2023/DS-PT

Số hiệu:568/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về