Bản án về tranh chấp phường hụi số 65/2021/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 65/2021/DS-PT NGÀY 11/11/2021 VỀ TRANH CHẤP PHƯỜNG HỤI

Ngày 11/11/2021, tạiTrụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 25/2021/TLPT-DS ngày 16/3/2021 về “Tranh chấp về phường hụi”. Do bản án dân sự sơ thẩm số 12/2020/DS-ST ngày 06/10/2020 của Tòa án Nhân dân huyện C, tỉnh Nghệ An bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 117/2021/QĐ-PT ngày 05/10/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Đặng Thị Ng, sinh năm 1961. Địa chỉ: xóm Mậu 1 (nay là xóm L Mậu 1), xã C, huyện c, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Bị đơn: Bà H Thị X, sinh năm 1963. Địa chỉ: xóm Mậu 3 (nay là xóm L Mậu 1), xã C, huyện c, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Nguyễn Thị Tuyết Nh, sinh năm 1964. Địa chỉ: xóm Mậu 6 (nay là xóm L Mậu 3), xã C, huyện c, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

+ Bà Lê Thị S, sinh năm 1980. Địa chỉ: xóm Mậu 6 (nay là xóm c), xã C, huyện c, tỉnh Nghệ An. Hiện đang chấp Hnh án phạt tù tại Trại giam c – Bộ Công an. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Bà Nguyễn Thị Ngọc H. Địa chỉ: tổ 3, khối 8, C, thành V, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

+ Bà Trần Thị Hồng L, sinh năm 1987. Địa chỉ: xóm Mậu 4 (nay là xóm L Mậu 2), xã Kim L, huyện C, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

+ Bà Trương Thị Kim Th, sinh năm 1960. Địa chỉ: xóm Mậu 4 (nay là xóm L Mậu 2), xã Kim L, huyện C, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

Người kháng cáo: bị đơn bà H Thị X.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 05/02/2017, lời khai trong quá trình thu thập chứng cứ, hòa giải và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Đặng Thị Ng trình bày:trong năm 2012, bà Đặng Thị Ng có tham gia 06 dây phường do bà H Thị X làm chủ phường. Số tiền phường nguyên đơn đã nộp là 151.000.000 đồng; đã thỏa thuận chuyển sang lấy nợ ở ông Nguyễn Văn Quang là 78.875.000 đồng nên số tiền còn lại đã nộp là 72.125.000 đồng; số tiền lãi đã nhận: 24.800.000 đồng; bà H Thị X đã trả nợ 03 đợt được số tiền là 3.910.000 dồng. Số tiền thực nguyên đơn đã nộp mà chưa nhận tại phường do bà H Thị X làm chủ phường sau khi cân đối là 43.415.000 đồng. Vì vậy, nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc bà H Thị X thanh toán số tiền phường còn nợ là 43.415.000 đồng, không tính lãi suất.

Bị đơn bà H Thị X trình bày: từ năm 2011 đến năm 2013, bà đứng ra thành lập một số dây phường và làm chủ phường với mục đích là tự nguyện góp tiền giúp đỡ nhau phát triển kinh tế gia đình. Chủ phường được trích hoa hồng để chi phí tiền điện, nước, sổ sách. Bà H Thị X thừa nhận bà Đặng Thị Ng tham gia 06 dây phường do bà X làm chủ phường và số tiền các dây phường còn nợ bà Đặng Thị Ng là 43.415.000 đồng. Tuy nhiên, trách nhiệm trả nợ là của phường, bà X không có nghĩa vụ trả nợ. Bà X đề nghị đưa các thành viên đã nhận phường không tiếp tục đóng phường vào tham gia với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án gồm bà Lê Thị S, bà Trần Thị Hồng L, bà Nguyễn Thị Tuyết Nh, bà Nguyễn Thị Ngọc H, bà Trương Thị Kim Th, bà Đặng Thị Kim Dung, bà Châu Thị Hồng để những người này có trách nhiệm trả nợ. Đồng thời bị đơn yêu cầu triệu tập 39 thành viên tham gia phường nhưng chưa được nhận phường tham gia tố tụng để các thành viên đã nhận tiền có trách nhiệm trả nợ cho những người này.

Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, gồm: bà Nguyễn Thị Tuyết Nh, bà Lê Thị S,bà Trần Thị Hồng L, bà Nguyễn Thị Ngọc H, bà Trương Thị Kim Th thừa nhận có tham gia chơi phường do bà H Thị X làm chủ phường; thời gian, hình thức chơi phường, quyền và nghĩa vụ của chủ phường đúng như bà X trình bày. Tuy nhiên, quá trình chơi phường bà Nh, bà S, bà L, bà H, bà Th trực tiếp đóng tiền phường cho bà X, nhận tiền phường cũng do bà X trực tiếp trả và không biết những ai tham gia chơi phường cùng với mình, các thành viên phường cũng không giao dịch, thỏa thuận gì với nhau. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thừa nhận đang nợ tiền phường của bà H Thị X và sẽ chịu trách nhiệm trả nợ cho bà X. Việc bà X yêu cầu bà Nh, bà S, bà L, bà H, bà Th trả tiền cho bà Đặng Thị Ng thì họ không đồng ý vì các thành viên phường không giao dịch, thỏa thuận gì với nhau. Chủ phường là người trực tiếp thu tiền, chi trả tiền phường; còn chi trả cho ai, bao nhiêu họ hoàn toàn không biết nên không chấp nhận yêu cầu của bà X.

Với nội dung trên, bản án sơ thẩm số 12/2020/DS-ST ngày 06/10/2020 của Tòa án nhân C đã quyết định:

Căn cứ vào Điều 121, 122, 123, khoản 1 Điều 302, Điều 304, 479 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 4, 5, 6, 7, 8, 15, 17, 24, 25, 26, 27, 28, 29 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP, ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị Ng, buộc bà H Thị X phải trả cho bà Đặng Thị Ng số tiền phường còn nợ là 43.415.000 đồng.

Ngoài ra bản án cònquyết định về án phí,nghĩa vụ thi hành án dân sự và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 13/10/2020, bị đơn bà H Thị X kháng cáo với nội dung không đồng ý toàn bộ bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Nam Đàn. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét hủy bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm,bà H Thị X giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân phát biểu quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tiến Hnh tố tụng, người tham gia tố tụng: Trong quá trình thụ lý vụ án đến khi xét xử phúc thẩm, Thẩm phán được phân công đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng trình tự, thủ tục phiên tòa. Người tham gia tố tụng đã chấp Hnh đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm không đưa những thành viên tham gia các dây phường, ông Bình vào tham gia tố tụng để làm rõ nội dung thể hiện tại các biên bản họp thành lập các dây phường, cũng như các thành viên phường có thỏa thuận với nhau về việc nếu có thành viên không nộp tiền phường thì chủ phường phải có trách nhiệm nộp thay tiền phường cho thành viên còn lại chưa mua được phường hay không là chưa đầy đủ và bản án sơ thẩm nhận định bà X vi phạm nghĩa vụ thu tiền phường chứ không phải có nghĩa vụ nộp thay tiền phường, nhưng lại buộc bà X phải thanh toán tiền phường còn thiếu cho bà Ng là không phù hợp. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự, chấp nhận một phần kháng cáo của bà H Thị X, hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của các bên đương sự, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Tuyết Nh, bà Trần Thị Hồng L, bà Nguyễn Thị Ngọc H, bà Trương Thị Kim Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do; bà Lê Thị S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2, 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

[2] Xét nội dung kháng cáo của bà H Thị X, thấy:

[2.1] Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm cũng như cấp phúc thẩm, bà Đặng Thị Ng và bà H Thị X đều thừa nhận: Năm 2012, bà Đặng Thị Ng tham gia 06 dây phường do bà H Thị X làm chủ phường.Tổng cộng bà Ng đã nộp tiền của 06 dây phường cho chủ phường bà H Thị X là 151.000.000 đồng. Bà Ng và Bà X đã thỏa thuận bà X chuyển sang lấy nợ ở ông Nguyễn Văn Quang là 78.875.000 đồng; bà Ng đã nhận tiền lãi tại bà X là 24.800.000 đồng. Sau khi dừng phường bà X đã trả cho bà Ng 3 đợt được số tiền là 3.910.000 đồng. Số tiền phường bà Ng đã nộp nhưng chưa nhận tại phường do bà X làm chủ là 43.415.000 đồng.

[2.2] Bà H Thị X cho rằng số tiền 43.415.000 đồng bà Ng chưa nhận được là do các dây phường nợ và trách nhiệm trả nợ cho bà Ng là của phường, bà không có nghĩa vụ trả nợ cho bà Ng. Bà X yêu cầu đưa những người đã nhận tiền phường nhưng không tiếp tục đóng tiền phường nữa là các bà Lê Thị S, bà Trần Thị Hồng L, bà Nguyễn Thị Tuyết Nh, bà Nguyễn Thị Ngọc H, bà Trương Thị Kim Th, bà Đặng Thị Kim Dung, bà Châu Thị Hồng vào tham gia vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để buộc họ có trách nhiệm trả nợ cho bà Ng. Đồng thời yêu cầu triệu tập 39 thành viên tham gia phường nhưng chưa được nhận phường tham gia tố tụng để các thành viên đã nhận tiền có trách nhiệm trả nợ cho những người này.

[2.3] Thấy rằng: Theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ (Gọi Nghị định 144) thì “Chủ họ là người tổ chức họ, thu các phần họ và giao các phần họ đó cho các thành viên được lĩnh họ trong mỗi kỳ mở họ cho đến khi kết thúc họ”. Các dây phường do bà X làm chủ là phường (Họ) có lãi, phường (Họ) hưởng hoa hồng (Bà X được hưởng 1% hoa hồng). Theo quy định tại Điều 24 Nghị định 144 thì “Chủ họ có trách nhiệm thu phần họ của các thành viên góp họ để giao cho thành viên được lĩnh họ”. Bà Xcó quyền được hưởng 1% số tiền lãi mà người mua được phường trả và có nghĩa vụ thu tiền phường của các thành viên chơi phường để trả cho người trúng phường.Tại các biên bản họp phường đều xác định: “Chủ phường phải chịu trách nhiệm đối với mọi thành viên tham gia và chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với mọi sự thất thoát”. Sau khi dừng phường, bà X đã tổ chức họp phường. Tại biên bản họp phường ngày 08/8/2013 các thành viên tham gia phường và chủ phường bà H Thị X đã thống nhất nội dung: “…Yêu cầu hai vợ chồng trùm phường phải ký nhận và chịu trách nhiệm trả lại cho các con phường”. Sau khi dừng phường, bà X cũng đã dùng tài sản của mình, vay mượn cũng như yêu cầu các thành viên phường bỏ trốn trả tiền để thanh toán cho các con phường, trong đó thanh toán cho bà Ng số tiền 3.910.000 đồngvà đề nghị khi nào thu được tiền phường từ các thành viên phường đã nhận tiền thì sẽ thanh toán cho các thành viên chưa nhận phường.Mặt khác, các thành viên trong các dây phường do bà X làm chủ không hoàn toàn quen biết nhau, bà Ng không thỏa thuận, không có giao dịch với các thành viên phường khác mà chỉ thông qua bà X để nộp và nhận tiền phường. Sau khi dừng phường họ đã chốt nợ tiền phường với bà X. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà H Thị X phải trả cho bà Đặng Thị Ng số tiền phường 43.415.000 đồng là có căn cứ.

[2.4] Đối với việc đề nghị đưa tất cả các thành viên tham gia phường vào tham gia tố tụngcủa bà Đặng Thị Ng và đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An tại phiên tòa. Thấy rằng,các dây phường do bà X làm chủ có nhiều người tham gia; những người đã nhận phường gồm các bà Nh, S, H, L, Th cũng đã xác định còn nợ bà X tiền phường. Tại các biên bản họp phường mặc dù chỉ mình bà X ký tên nhưng bà X đã thừa nhận trách nhiệm của chủ phường trong các biên bản họp phường; ông Nguyễn Văn Bình (chồng bà X) cũng thừa nhận nội dung trong Biên bản họp phường ngày 08/8/2013 là đúng, lúc đó ông ký Biên bản với tư cách người làm chứng và sau khi vỡ phường giữa bà X và bà Ng đã thống nhất về số tiền phường còn nợ, không liên quan đến các con phường khác, do đó không cần thiết phải hủy bản án sơ thẩm.

[2.5] Trường hợp bà X có căn cứ chứng minh những người trên còn nợ tiền phường do bà X làm chủ phường thì có quyền làm đơn khởi kiện bằng vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật nên không làm mất quyền khởi kiện của bà X.

[2.6] Từ những phân tích trên thấy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bà H Thị X, cần giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[3] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà H Thị X phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự: Không chấp nhận nội dung kháng cáo của bà H Thị X; Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Áp dụng các Điều 121, 122, 123, khoản 1 Điều 302, Điều 304, 479 Bộ luật dân sự 2005; Điều 4, 5, 8, 14, 15, 17, 24, 26, 27 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP, ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường;Điều 147, 148 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị Ng, buộc bà H Thị X phải trả cho bà Đặng Thị Ng số tiền phường còn nợ là 43.415.000 đồng (Bốn mươi ba triệu, bốn trăm mười lăm ngàn đồng).

2. Về án phí:

2.1. Buộc bị đơn bà H Thị X phải chịu 2.170.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Tổng cộng là 2.470.000 đồngnhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0003352 ngày 19/10/2020 tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Bà H Thị X còn phải nộp 2.170.000 đồng (Hai triệu, một trăm, bảy mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

2.2. Hoàn trả lại cho bà Đặng Thị Ng số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.700.000 đồng (Một triệu bảy trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0003382, ngày 04/5/2017 tạiChi cục thi hành án dân sự huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều các 6, 7, 7a, 7b và điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp phường hụi số 65/2021/DS-PT

Số hiệu:65/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về