Bản án về tranh chấp nuôi con số 21/2021/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 21/2021/HNGĐ-PT NGÀY 28/12/2021 VỀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 09/2021/TLPT-HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2021 về “Tranh châp nuôi con” Do Bản án số 17/2021/HNGĐ-ST ngày 06 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Đ bị kháng cáo Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 09/2021/QĐPT-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Hoàng T, sinh năm 1997 “có mặt” Nơi cư trú tại địa chỉ: Ấp Suối Sâu, xã An Tịnh, thị xã T.B, tỉnh T

- Bị đơn: Chị Đỗ Thị H, sinh năm 2000 “có mặt” Nơi cư trú tại địa chỉ: Đội 2, ấp 5, xã TL, huyện Đ, tỉnh Bình Phước

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phạm Thanh Đ, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, địa chỉ Chi nhánh Văn phòng Luật sư T.Đ, tổ 15, khu phố Tân Lộc, phường Gia Lộc, thị xã T.B, tỉnh T “có mặt”

- Người kháng cáo: Nguyên đơn anh Nguyễn Hoàng T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn anh Nguyễn Hoàng T và bị đơn chị Đỗ Thị H có đăng ký kết hôn năm 2018 tại Uỷ ban nhân dân xã Kiến Thành, huyện Đ1, tỉnh Đ. Quá trình chung sống thời gian đầu hai bên hạnh phúc, thời gian sau đó thì phát sinh mâu thuẫn kéo dài cho đến nay, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, tình cảm vợ chồng không còn, đã ly thân kể từ ngày 12/12/2020 nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn và bị đơn cũng chấp nhận ly hôn với nguyên đơn.

Về con cái, nguyên đơn anh Nguyễn Hoàng T và bị đơn chị Đỗ Thị H có 01 người con chung là cháu Nguyễn Thị Trà M, sinh ngày 01/6/2018, cả nguyên đơn và bị đơn đều có yêu cầu trực tiếp nuôi con và đều không có yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 17/2021/HNGĐ-ST ngày 06 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bình Phước đã quyết định:

Căn cứ các điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, các điều 35, Điều 39, 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án,

1. Về hôn nhân: Xử cho nguyên đơn Nguyễn Hoàng T được ly hôn với bị đơn chị Đỗ Thị H.

2. Về nuôi con: Giao cháu tên Nguyễn Thị Trà M, sinh ngày 01/6/2018 cho bị đơn chị Đỗ Thị H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Nguyễn Thị Trà M trưởng thành đủ 18 tuổi. Trong thời gian bị đơn trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Thị Trà M, nguyên đơn được thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo luật định.

Ngoài ra, còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 16/4/2021, nguyên đơn anh Nguyễn Hoàng T có đơn kháng cáo một phần của Bản án sơ thẩm trên về phần nuôi con, yêu cầu được trực tiếp nuôi con là cháu Nguyễn Thị Trà M với lý do cho rằng nguyên đơn có đủ điều kiện trực tiếp nuôi con, còn bị đơn chị Đỗ Thị H không có đủ điều kiện trực tiếp nuôi con.

Ý kiến của Kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tại phiên toà:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, kể từ khi thụ lý vụ án và tại phiên toà, Thẩm phán và Hội đồng xét xử tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

-Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn anh Nguyễn Hoàng T, giữ nguyên Bản án sơ thẩm trên về phần nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên toà Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước nhận định như sau:

[1] Xét kháng cáo, thấy rằng: Cháu Nguyễn Thị Trà M là cháu gái sinh ngày 01/6/2018, tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm ngày 06/4/2021 thì cháu Nguyễn Thị Trà M chưa đủ 36 tháng tuổi, hơn nữa bị đơn chị Đỗ Thị H hiện nay khoẻ mạnh, có chỗ ở ổn định, có việc làm và thu nhập đảm bảo việc nuôi con nên Toà án cấp sơ thẩm giao cho bị đơn trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Trà M là tốt nhất, phù hợp với lợi ích của cháu Nguyễn Thị Trà M và đúng quy định của pháp luật nên yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn không được chấp nhận.

[2] Quan điểm của Kiểm sát viên đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng T, giữ nguyên Bản án sơ thẩm về phần nuôi con là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[3] Quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn yêu cầu chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn anh Nguyễn Hoàng T, giao cháu Nguyễn Thị Trà M cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của nguyên đơn anh Nguyễn Hoàng T không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

[5]. Các quyết định khác của bản án không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng T, Giữ nguyên Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 17/2021/HNGĐ-ST ngày 06 tháng 4 năm 2021 của Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bình Phước về phần nuôi con.

2. Căn cứ các điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Giao cháu Nguyễn Thị Trà M, sinh ngày 01/6/2018 cho bị đơn chị Đỗ Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Nguyễn Thị Trà M trưởng thành đủ 18 tuổi.

Trong thời gian bị đơn trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Thị Trà M, nguyên đơn được thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo luật định.

3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn anh Nguyễn Hoàng T phải chịu 300.000 đồng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0004772 ngày 04 tháng 5 năm 2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Đ, tỉnh Bình Phước.

4. Các quyết định khác của bản án không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp nuôi con số 21/2021/HNGĐ-PT

Số hiệu:21/2021/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về