Bản án về tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 33/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 33/2024/HNGĐ-ST NGÀY 05/02/2024 VỀ TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 05 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 447/2023/TLST- HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2023, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 01 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2024/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Cao Thị P, sinh năm 1997, Nơi ĐKHKTT: Khu dân cư N, phường T, thành phố C, tỉnh Hải Dương; Nơi ở hiện nay: Số nhà B, phố N, phường S, thành phố C tỉnh Hải Dương.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1997, Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Khu dân cư N, phường T, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Nơi ở hiện nay: Đài Loan.

- Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1976, địa chỉ: Khu dân cư N, phường T, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

Chị P, anh T, bà T1 vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, biên bản lấy lời khai chị Cao Thị P trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn T tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố C, tỉnh Hải Dương vào ngày 03/3/2020. Sau khi kết hôn, chị chuyển về sinh sống cùng gia đình nhà chồng. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do chị nghi ngờ anh T có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Chị và anh T được gia đình động viên hòa giải đề tiếp tục chung sống nuôi dạy con nhỏ. Cuối năm 2021, anh T đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản, vợ chồng xa cách nhưng vẫn thường xuyên gọi điện hỏi thăm nhau. Tháng 3/2023, anh T hết hạn hợp đồng lao động về nước. Tháng 7/2023, anh T đi Campuchia khoảng 02 tháng thì về nước, chị tiếp tục phát hiện anh T không chung thủy với chị nhưng chị vẫn tha thứ để vợ chồng tiếp tục chung sống. Tháng 9/2023, anh T đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan, vợ chồng xa cách nên tiếp tục nảy sinh mâu thuẫn, chị đã xin phép bố mẹ chồng chuyền về nhà bố mẹ đẻ tại phường S, thành phố C để sinh sống. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

- Về con chung: Chị và anh T có 01 con chung là Nguyễn Việt A, sinh ngày 13/10/2020, hiện cháu đang ở cùng chị. Khi ly hôn, chị có nguyện vọng được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung đến khi trưởng thành và tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị.

- Về tài sản chung, vay nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn: Quá trình giải quyết vụ án, chị P không cung cấp được địa chỉ của anh T tại Đài Loan nên Tòa án đã xác minh qua gia đình anh T, đồng thời yêu cầu gia đình cung cấp địa chỉ của anh T. Bà Nguyễn Thị T1 là mẹ đẻ của anh T trình bày: Về thời điểm kết hôn như chị P trình bày là đúng. Anh T đã biết việc chị P có đơn xin ly hôn và yêu cầu giải quyết việc nuôi dưỡng con chung. Hiện nay, anh T đang làm việc tại Đài Loan vẫn chưa về nước, chị P đã đưa con về ở cùng bố mẹ đẻ. Anh T xác định không nhất trí ly hôn nhưng nếu chị P cương quyết xin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Về con chung: Anh T xác định vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Việt A, sinh ngày 13/10/2020, hiện nay đang ở cùng với chị P. Trường hợp nếu ly hôn anh T nhất trí để chị P được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung đến khi trưởng thành. Chị P không yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi dưỡng con chung, anh T đồng ý. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện nay anh T đang đi làm xa nên anh T xin vắng mặt tại các buổi làm việc và phiên tòa, các văn bản Tòa án gửi cho anh T đề nghị gửi cho bà và bà sẽ có trách nhiệm thông báo cho anh T.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn chị P có đơn đề nghị xin xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; Bị đơn anh T vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

* Đại diện Viện sát nhân dân tỉnh H phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn chấp hành đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình: Xử cho chị Cao Thị P được ly hôn anh Nguyễn Văn T; Giao cho chị P trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung Nguyễn Việt A, sinh ngày 13/10/2020 cho đến khi trưởng thành. Chấp nhận sự tự nguyện của chị P không yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung; Về tài sản chung, vay nợ: Các đương sự không yêu cầu nên không phải giải quyết; Về án phí: Chị P phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thm tra tại phiên toà, ý kiến phát biu của đại diện Viện kim sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Chị Cao Thị P có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương giải quyết việc ly hôn giữa chị với anh Nguyễn Văn T. Anh T hiện đang sinh sống và lao động tại Đài Loan. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 37, điềm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.

Quá trình giải quyết vụ án, chị P không cung cấp được địa chỉ của anh T tại Đài Loan. Theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã yêu cầu chị P và gia đình anh T cung cấp địa chỉ, nhưng chị P và gia đình anh T không cung cấp được. Bà T1 là mẹ đẻ anh T xác định anh T vẫn liên lạc với gia đình, anh T đã biết việc chị P có đơn xin ly hôn, anh T không cung cấp địa chỉ và không gửi ý kiến trình bày bằng văn bản cho Tòa án. Do vậy, áp dụng Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa, Tòa án xác định bà Nguyễn Thị T1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Sau khi thẩm tra các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xác định bà Nguyễn Thị T1 tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng.

Tại phiên tòa chị P, bà T1 đề nghị xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị P, anh T.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Cao Thị P và anh Nguyễn Văn T tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã, thành phố C, tỉnh Hải Dương vào ngày 03/3/2020 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng gia đình nhà chồng đến năm 2021 thì bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do nghi ngờ nhau về tình cảm vợ chồng. Mặc dù, đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng vợ chồng vẫn tiếp tục nảy sinh mâu thuẫn. Tháng 9/2023, anh T đi xuất khẩu lao động Đài Loan, vợ chồng xa cách nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, chị P đã cùng con chuyển về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Chị P xác định không còn tình cảm với anh T và có đơn xin ly hôn, thông qua gia đình anh T đã biết việc chị P có đơn xin ly hôn. Anh T có quan điểm không nhất trí ly hôn, muốn vợ chồng hàn gắn để tiếp tục chung sống nuôi dạy con chung nhưng không có biện pháp đề hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng chị P và anh T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình xử cho chị P được ly hôn anh T là phù hợp.

[2.2]. Về quan hệ con chung: Chị P và anh T có 01 con chung là Nguyễn Việt A, sinh ngày 13/10/2020, hiện nay cháu đang ở cùng với chị P. Chị P và anh T cùng có quan điểm để chị P được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung cho đến khi trưởng thành. Xét thấy: Chị con chung đang ở cùng chị P và được chị P chăm sóc phát triển ổn định. Do đó, chấp nhận đề nghị của chị P và anh T giao cháu Nguyễn Việt A cho chị P tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành. Chấp nhận sự tự nguyện của chị P không yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Anh Nguyễn Văn T được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[2.3]. Về tài sản chung, vay nợ: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí: Chị P là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định.

[4]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Cao Thị P được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Giao cho chị Cao Thị P tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung Nguyễn Việt A, sinh ngày 13/10/2020, thời gian từ tháng 02/2024 cho đến khi trưởng thành. Chấp nhận sự tự nguyện của chị P không yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Anh Nguyễn Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Cao Thị P phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2023/0001204 ngày 12/10/2023 (chị P đã nộp đủ án phí).

4. Về quyền kháng cáo: Chị P vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết. Anh T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 33/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về