Bản án về tranh chấp nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn số 50/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 50/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TRANH CHẤP NUÔI CON CỦA NAM, NỮ CHUNG SỐNG VỚI NHAU NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN

Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 76/2022/TLST- HNGĐ ngày 09 tháng 9 năm 2022 về tranh chấp về nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Xuân H; nơi cư trú: Xóm N, xã M, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Chị Hoàng Thị T; nơi cư trú: Đường L, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 20 tháng 8 năm 2022 và trong quá trình tham gia tố tụng tại Toà án, nguyên đơn là anh Nguyễn Xuân H trình bày:

Năm 2007, anh Nguyễn Xuân H và chị Hoàng Thị T chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới theo phong tục tập quán nhưng do không hiểu biết pháp luật nên không làm thủ tục đăng ký kết hôn.

Quá trình chung sống anh chị hạnh phúc được 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, lối sống, tính cách không hợp. Gia đình hai bên đã nhiều lần hòa giải nhưng không có kết quả mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Anh chị đã không chung sống cùng nhau 06 tháng nay, không còn quan hệ về tình cảm và kinh tế. Nay xác định tình cảm không còn, cuộc sống chung không có hạnh phúc nên anh H yêu cầu Toà án giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh và chị T.

- Về con chung: Anh H và chị T có hai con chung là Nguyễn Thị Hà My, sinh ngày 29/01/2008 và Nguyễn Xuân Hải, sinh ngày 25/6/2014. Anh đề nghị Tòa án giao con Nguyễn Thị Hà My cho anh H trực tiếp nuôi, giao con Nguyễn Xuân Hải cho chị T trực tiếp nuôi. Việc cấp dưỡng nuôi con, anh chị tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Anh H và chị T không có tài sản chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Anh H đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Tại bản tự khai và trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, bị đơn là chị Hoàng Thị T trình bày:

Năm 2007, chị T và anh H chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới theo phong tục tập quán nhưng do không hiểu biết pháp luật nên không làm thủ tục đăng ký kết hôn.

Quá trình chung sống anh chị hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, lối sống, tính cách không hợp. Gia đình hai bên đã nhiều lần hòa giải nhưng không có kết quả mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Đến nay anh chị đã sống riêng, không còn quan hệ về tình cảm và kinh tế. Nay chị cũng xác định tình cảm giữa chị và anh H không còn, cuộc sống chung không có hạnh phúc. Anh H yêu cầu Toà án giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị và anh H, quan điểm của chị là đồng ý với yêu cầu của anh H.

- Về con chung: Chị T và anh H có hai con chung là Nguyễn Thị Hà My, sinh ngày 29/01/2008 và Nguyễn Xuân Hải, sinh ngày 25/6/2014. Chị đồng ý với đề nghị của anh H, giao con Nguyễn Thị Hà My cho anh H trực tiếp nuôi, giao con Nguyễn Xuân Hải cho chị T trực tiếp nuôi. Việc cấp dưỡng nuôi con, anh chị tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Chị T và anh H không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Chị T đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, nguyên đơn anh Nguyễn Xuân H và bị đơn chị Hoàng Thị T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử công bố lời khai của anh H, nội dung vẫn giữ nguyên yêu cầu như trong đơn khởi kiện; công bố lời khai của chị T, nội dung vẫn giữ nguyên quan điểm đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng dân sự:

+ Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

[1] Đây là vụ án hôn nhân và gia đình về tranh chấp về nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 7 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chị Hoàng Thị T cư trú trên địa bàn quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về sự vắng mặt của nguyên đơn, bị đơn:

[2] Nguyên đơn anh Nguyễn Xuân H và bị đơn chị Hoàng Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đã có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là bảo đảm đúng các quy định của pháp luật.

- Về nội dung:

+ Về quan hệ hôn nhân:

[3] Anh Nguyễn Xuân H và chị Hoàng Thị T chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2007 trên cơ sở tự nguyện nhưng không làm thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định thì không có giá trị pháp lý”. Vì vậy, quan hệ giữa anh H và chị T không được pháp luật công nhận là vợ chồng.

[4] Quá trình chung sống, anh H và chị T đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do hai bên bất đồng quan điểm lối sống, không có sự chia sẻ với nhau. Đến nay anh H và chị T đã không sống cùng với nhau, không còn quan hệ về tình cảm và kinh tế. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không công nhận anh Nguyễn Xuân H và chị Hoàng Thị T là vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14; khoản 2 Điều 53 của Lụật Hôn nhân và gia đình.

+ Về việc nuôi con:

[5] Anh Nguyễn Xuân H và chị Hoàng Thị T có 02 con chung là Nguyễn Thị Hà My, sinh ngày 29/01/2008 và Nguyễn Xuân Hải, sinh ngày 25/6/2014. Anh Nguyễn Xuân H và chị Hoàng Thị T thỏa thuận giao con Nguyễn Thị Hà My cho anh H trực tiếp nuôi, giao con Nguyễn Xuân Hải cho chị T trực tiếp nuôi. Việc cấp dưỡng nuôi con, anh Nguyễn Xuân H và chị Hoàng Thị T tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét thỏa thuận của anh H và chị T là tự nguyện nên cần chấp nhận.

+ Về việc chia tài sản:

[6] Anh Nguyễn Xuân H và chị Hoàng Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí:

[7] Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, anh Nguyễn Xuân H phải nộp toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo:

[8] Anh Nguyễn Xuân H và chị Hoàng Thị T được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 7 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 9; các điều 14, 15, 16, 53, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Nguyễn Xuân H và chị Hoàng Thị T.

2. Về việc nuôi con: Giao con Nguyễn Thị Hà My, sinh ngày 29/01/2008 cho anh Nguyễn Xuân H trực tiếp nuôi, giao con Nguyễn Xuân Hải, sinh ngày 25/6/2014 cho chị Hoàng Thị T trực tiếp nuôi cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, anh Nguyễn Xuân H và chị Hoàng Thị T tự thỏa thuận nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về việc chia tài sản: Anh Nguyễn Xuân H và chị Hoàng Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Xuân H phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006702 ngày 09 tháng 9 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Anh Nguyễn Xuân H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án:

Nguyên đơn anh Nguyễn Xuân H và bị đơn chị Hoàng Thị T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

403
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn số 50/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:50/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về