Bản án về tranh chấp nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn số 20/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 20/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/05/2022 VỀ TRANH CHẤP NUÔI CON CỦA NAM, NỮ CHUNG SỐNG VỚI NHAU NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN

Ngày 18 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 42/2022/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2022 về tranh chấp về nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Cao Thị N; nơi ĐKHKTT: Thôn N, xã Đ, huyện K, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Đường N, phường D, quận L, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Vũ Trung D; nơi cư trú: Đường N1, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 14 tháng 4 năm 2022 và trong quá trình tham gia tố tụng tại Toà án, nguyên đơn là chị Cao Thị N trình bày:

Năm 2016, chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới theo phong tục tập quán nhưng do không hiểu biết pháp luật nên không làm thủ tục đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống anh chị hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, lối sống, tính cách không hợp. Gia đình hai bên đã nhiều lần hòa giải nhưng không có kết quả mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Đến nay anh chị đã sống riêng, không còn quan hệ về tình cảm và kinh tế. Nay xác định tình cảm không còn, cuộc sống chung không có hạnh phúc nên chị N đề nghị Toà án giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị và anh D.

- Về con chung: Chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D có một con chung là Vũ Minh T, sinh ngày 05/7/2016. Chị N và anh D thỏa thuận giao con Vũ Minh T cho anh D trực tiếp nuôi. Việc cấp dưỡng nuôi con anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Chị Cao Thị N đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Tại bản tự khai và trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, bị đơn là anh Vũ Trung D trình bày:

Năm 2016, anh Vũ Trung D và chị Cao Thị N chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới theo phong tục tập quán nhưng do không hiểu biết pháp luật nên không làm thủ tục đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống anh chị hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, lới sống, tính cách không hợp. Nay xác định tình cảm không còn, cuộc sống chung không có hạnh phúc nên anh đồng ý với yêu cầu khởi kiện của chị N về việc không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh và chị N.

- Về con chung: Anh Vũ Trung D và chị Cao Thị N có một con chung là Vũ Minh T, sinh ngày 05/7/2016. Anh D và chị N thỏa thuận giao con Vũ Minh T cho anh D trực tiếp nuôi. Việc cấp dưỡng nuôi con anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Anh Vũ Trung D và chị Cao Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Anh Vũ Trung D đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Cao Thị N và bị đơn anh Vũ Trung D có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử công bố lời khai của chị N, nội dung vẫn giữ nguyên yêu cầu như trong đơn khởi kiện; công bố lời khai của anh D, nội dung vẫn giữ nguyên quan điểm đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng dân sự:

+ Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

[1] Đây là vụ án hôn nhân và gia đình về tranh chấp về nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 7 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Vũ Trung D cư trú trên địa bàn quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về sự vắng mặt của nguyên đơn, bị đơn:

[2] Nguyên đơn chị Cao Thị N và bị đơn anh Vũ Trung D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đã có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là bảo đảm đúng các quy định của pháp luật.

- Về nội dung:

+ Về quan hệ hôn nhân:

[3] Chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2016 trên cơ sở tự nguyện nhưng không làm thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định thì không có giá trị pháp lý”. Vì vậy, quan hệ giữa chị N và anh D không được pháp luật công nhận là vợ chồng.

[4] Quá trình chung sống, chị N và anh D đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do hai bên bất đồng quan điểm lối sống, không có sự thông cảm, chia sẻ với nhau. Đến nay chị N và anh D đã không sống cùng với nhau, không còn quan hệ về tình cảm và kinh tế. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không công nhận chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D là vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Lụật Hôn nhân và gia đình.

+ Về việc nuôi con:

[5] Chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D có một con chung là Vũ Minh T, sinh ngày 05/7/2016. Quá trình giải quyết vụ án, anh D và chị N thỏa thuận giao con Vũ Minh T cho anh D trực tiếp nuôi. Việc cấp dưỡng nuôi con anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét thỏa thuận của chị N và anh D là tự nguyện nên cần chấp nhận.

+ Về việc chia tài sản:

[6] Chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí:

[7] Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Cao Thị N phải nộp toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo:

[8] Chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 7 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 9, các điều 14, 15, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D.

2. Về việc nuôi con: Giao con Vũ Minh T, sinh ngày 05/7/2016 cho anh Vũ Trung D trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D tự thỏa thuận nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về việc chia tài sản: Chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Cao Thị N phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006645 ngày 25 tháng 4 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Chị Cao Thị N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án:

Nguyên đơn chị Cao Thị N và bị đơn anh Vũ Trung D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1013
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn số 20/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:20/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:18/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về