TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẤP VÒ, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 48/2022/DS-ST NGÀY 07/07/2022 VỀ TRANH CHẤP NỢ HỤI
Ngày 07 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 213/2021/TLST-DS ngày 31 tháng 5 năm 2021 về việc “tranh chấp dân sự về nợ hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2022/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 6 năm 2022, Quyết định hoãn phiên toà số 80/2022/QĐST-DS ngày 17 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Võ Hồng N, sinh năm 1981; địa chỉ: Số 157, ấp H, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
* Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Anh Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1987; địa chỉ: Số 355A, khóm B 2, TT . L, huyện L, tỉnh Đ là đại diện theo uỷ quyền (Văn bản uỷ quyền ngày 03/3/2021)
- Bị đơn: Bà Dương Thị Thu H, sinh năm 1959 (vắng mặt) Địa chỉ: Số 100, ấp H, xã T, huyện L, tỉnh Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Anh Nguyễn Tuấn A đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn chị Võ Hồng N trình bày:
Vào năm 2017, chị Võ Hồng N có làm đầu thảo 02 dây hụi và bà Dương Thị Thu H là hụi viên, cụ thể như sau:
+ Dây hụi thứ nhất khui ngày 19/03/2017al, hụi 3.000.000đ/phần, gồm 18 phần, mỗi tháng khui một lần, bà Dương Thị Thu H tham gia 01 phần, trong danh sách hụi viên thứ tự là số 2 ghi tên là Thiếm Công là ghi theo tên chồng của bà H. Hụi khui đến lần thứ 8 ngày 19/10/2017al thì bà H bỏ hụi 520.000đ và được hốt hụi, số tiền bà H hốt hụi gồm 07 phần chết x 3.000.000 là 21.000.000đ và 10 phần sống x 2.480.000đ là 24.800.000đ, trừ huê hồng 1.100.000đ, số tiền bà H thực nhận là 44.700.000đ (Bốn mươi bốn triệu bảy trăm nghìn đồng). Chị N đã giao đủ số tiền trên cho bà H nhận và bà H đã ký tên nhận tiền vào sổ hụi. Sau khi hốt hụi xong bà H phải đóng lại 10 phần hụi chết là 30.000.000đ, nhưng bà H chỉ đóng hụi chết được 5 lần với số tiền là 15.000.000đ còn lại 05 lần hụi chết từ lần khi ngày 19/4/2018 là 15.000.000đ thì bà H không đóng nữa.
+ Dây hụi thứ hai khui ngày 11/11/2017al, hụi 5.000.000đ/phần, gồm 16 phần, mỗi tháng khui một lần, bà Dương Thị Thu H tham gia 01 phần, trong danh sách hụi viên thứ tự là số 6 ghi tên là Thiếm Công là ghi theo tên chồng của bà H. Hụi khui đến lần thứ 3 ngày 11/01/2018al thì bà H bỏ hụi 750.000đ và được hốt hụi, số tiền bà H hốt hụi gồm 02 phần chết x 5.000.000 là 10.000.000đ và 13 phần sống x 4.250.000đ là 55.250.000đ, trừ huê hồng 1.900.000đ, số tiền bà H thực nhận là 63.350.000đ (Sáu mươi ba triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng). Chị N đã giao đủ số tiền trên cho bà H nhận và bà H đã ký tên nhận tiền vào sổ hụi. Sau khi hốt hụi xong bà H phải đóng lại 13 phần hụi chết là 65.000.000đ, nhưng bà H chỉ đóng hụi lại được 1 lần số tiền 5.000.000đ, còn lại 12 phần với số tiền 60.000.000đ thì bà H không đóng tiếp nữa.
Tổng số tiền của hai dây hụi mà bà H còn nợ lại chị N là 75.000.000đ. Sau nhiều lần chị N yêu cầu bà H trả số tiền hụi còn nợ nêu trên nhưng bà H không có tiền để trả. Do bà H không có tiền để trả nợ hụi nên chị N và bà H có thoả thuận là bà H sẽ chuyển nhượng căn nH và đất tại số 100, ấp Hưng Hoà, xã Tân Khánh Trung, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp thuộc thửa đất số 642, tờ bản đồ số 1, diện tích 80m2 với giá là 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng) để trừ số tiền bà H nợ hụi chị N là 75.000.000đ và chị N phải trả thêm cho bà H số tiền là 125.000.000đ. Do thời điểm thoả thuận chuyển nhượng nH và đất thì giấy chứng nhận QSDĐ diện tích đất trên bà H đang thế chấp để vay tiền Ngân Hng nên hai bên không làm thủ tục chuyển nhượng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, sau khi bà H lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về thì bà H không đồng ý chuyển nhượng nH và đất nêu trên cho chị N theo như thoả thuận trước đây. Việc thoả thuận chuyển nhượng nH và đất nêu trên hai bên chỉ thoả thuận bằng lời nói chứ không có làm giấy tờ gì và cũng không có ai biết. Nay do không có chứng cứ chứng minh việc bà H thoả thuận chuyển nhượng nH và đất để trừ nợ hụi nên chị Võ Thị Hồng N thay đổi yêu cầu là yêu cầu Toà án giải quyết buộc bà Dương Thị Thu H phải có nghĩa vụ trả số tiền hụi còn nợ là 75.000.000đ (Bảy mươi lăm triệu đồng), không yêu cầu tính lãi.
- Bị đơn bà Dương Thị Thu H đã được Toà án tống đạt thông báo thụ lý vụ án nhưng bà H không có văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn. Tòa án cũng đã triệu tập hợp lệ bà H để tham gia phiên hòa giải đến lần thứ 2 nhưng bà H vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc trường hợp không tiến hành hoà giải được.
- Tại phiên toà sơ thẩm, đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp phát biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử sơ thẩm và Thư ký phiên toà từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Xác định đúng tư cách đương sự và quan hệ tranh chấp. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và chấp Hnh nghiêm chỉnh nội quy phiên toà. Riêng bị đơn đã không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.
Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào Điều 471 Bộ luật dân sự và Điều 16, Điều 17 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 về họ, hụi, biêu, phường. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cầu của nguyên đơn, buộc bà Dương Thị Thu H có nghĩa vụ trả cho chị N số tiền hụi còn nợ là 75.000.000đ (Bảy mươi lăm triệu đồng).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, lời phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử Toà án nhân dân huyện Lấp Vò nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số tiền nợ hụi nên quan hệ tranh chấp được xác định là “Tranh chấp dân sự về nợ hụi” được quy định tại Điều 471 Bộ luật dân sự. Bị đơn có hộ khẩu và cư trú tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp do đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò theo quy định tại khoản 3, Điều 26, khoản 1 Điều 35 và điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Bà Dương Thị Thu H đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên toà nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên áp dụng Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà H.
[2] Về yêu cầu của đương sự:
[2.1] Chị Võ Hồng N khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết buộc bà Dương Thị Thu H có nghĩa vụ trả cho chị N số tiền hụi còn nợ là 75.000.000đ. Để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ chị N cung cấp sổ hụi khui ngày 19/3/2017al và sổ hụi khui ngày 11/11/2017al có chữ ký nhận tiền hụi của bà H. Đồng thời, những người làm chứng là chị Thuận, chị Hoa, chị Mai, ông Thanh, chị Hiền là những người cùng tham gia hai dây hụi nên trên và có tên trong danh sách hụi viên đều khẳng định hai dây hụi này bà Dương Thị Thu H là người trực tiếp tham gia hụi với tên hội viên là “Thiếm Công”, thiếm Công là ghi theo tên chồng của bà H.
[2.2] Còn bà Dương Thị N H từ khi Toà án thụ lý vụ án đến nay không không có văn bản trình bày ý kiến của mình và cũng không đến Toà án để trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Sự vắng mặt của bị đơn thể hiện bị đơn đã từ bỏ quyền trình bày và cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
[2.3] Như vậy, có căn cứ xác định số tiền hụi mà bà H còn thiếu chị N theo như đơn khởi kiện của chị là 75.000.000đ (Bảy mươi lăm triệu đồng đồng). Do đó, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Võ Hồng N, buộc bà Dương Thị Thu H có nghĩa vụ trả cho chị N số tiền hụi còn nợ nêu trên mới là phù hợp.
[2.4] Đối với số tiền lãi chậm giao tiền các bên đương sự không yêu cầu Toà án giải quyết do đó không xem xét giải quyết.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được Toà án chấp nhận toàn bộ nên bị đơn phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 4 Điều 26 Nghị quyết về án phí, lệ phí Tòa án.
[4] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà là phù hợp như đã phân tích ở trên nên chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 357, Điều 471 và Điều 468 Bộ luật Dân sự; Điều 5, Điều 6, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91, Điều 92, Điều 227, Điều 228, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 16, Điều 17, Điều 21, Điều 22, Điều 24 Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Võ Hồng N Buộc bà Dương Thị Thu H có nghĩa vụ trả cho chị Võ Hồng N số tiền hụi còn nợ là 75.000.000đ (Bảy mươi lăm triệu đồng) Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
2.1. Bà Dương Thị Thu H phải nộp số tiền án phí dân sự sơ thẩm là 3.750.000đ (Ba triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng).
2.2. Chị Võ Hồng N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho chị N số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba tră m nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số BI/2019/0014198 ngày 28/5/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lấp Vò và số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.575.000đ (Một triệu năm trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0008712 ngày 05/4/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lấp Vò.
3. Đương sự có mặt tại phiên toà được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên toà được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm ngày) kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a , 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp nợ hụi số 48/2022/DS-ST
Số hiệu: | 48/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lấp Vò - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 07/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về