Bản án về tranh chấp mua bán hàng hóa số 05/2023/KDTM-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 05/2023/KDTM-ST NGÀY 17/08/2023 VỀ TRANH CHẤP MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 17 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, thành phố Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý 08/2023/TLST-KDTM ngày 03 tháng 7 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2023/QĐXXST- KDTM ngày 31 tháng 7 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 60/2023/QĐST- KDTM ngày 11 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty Cổ phần Đầu tư D. Địa chỉ: Cụm Công nghiệp A, xã Duy T, huyện Duy X, tỉnh Quảng N.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Trần Thị H, chức vụ: Giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hồ Văn T – Giám đốc nhân sự Công ty Cổ phần Đầu tư D; có mặt.

Bị đơn: Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Hòa S, huyện Hòa V, thành phố Đ. Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị T – Chức vụ: Giám đốc; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, biên bản hòa giải và tại phiên tòa hôm nay, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Công ty Cổ phần Đầu tư D, ông Hồ Văn T trình bày:

Ngày 07/5/2022 Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P và Công ty Cổ phần Đầu tư D ký Hợp đồng số 01/2022/HĐCCN (Sau đây gọi tắt là: Hợp đồng số 01/2022/HĐCCN) về việc cung cấp nước uống ION kiềm đóng chai 500ml.

Sau hai đợt giao hàng bình thường, đến ngày 07/02/2023 Công ty CP Đầu tư D (Sau đây gọi tắt: Công ty D) nhận được Công văn không số ngày 05/01/2023 của Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P (Sau đây gọi tắt: Công ty P) đề nghị thay đổi mẫu chai với dung tích từ 500ml xuống còn 470ml, điều chỉnh lại thông tin nhãn độc quyền. Ngày 07/02/2023 Công ty D đã gửi Công văn số 09/2023/CV-ĐDK không đồng ý về việc thay đổi.

Ngày 11/02/2023 Công ty D nhận được Công văn số 05/2023/CV-TGP của Công ty P với nội dung đề nghị vẫn duy trì vỏ chai loại 500ml nhưng khác với mẫu đã thống nhất (Mẫu mới có hình thức chai giống chai nước Aquafina). Ngày 22/02/2023 Công ty D gửi Công văn số 21/2023/CV- ĐDK trả lời không đồng ý thay đổi và đề nghị nếu không tiếp tục thực hiện hợp đồng như đã cam kết thì t lý chấm dứt hợp đồng.

Ngày 27/4/2023 Công ty D tiếp tục gởi Công văn số 73/2023/CV-ĐDK đề nghị Công ty P tiếp tục thực hiện Hợp đồng đã ký, giao hàng theo đúng thoả thuận (đúng mẫu chai, đúng tem nhãn, đảm bảo chất lượng như hợp đồng mà hai lần Công ty D đã nhận hàng trước đây) nếu không thực hiện thì đề nghị t lý hợp đồng và chuyển trả số tiền cọc là 45.800.000đ (bốn lăm triệu, tám trăm ngàn đồng) cho Công ty D, nếu sau 30 ngày mà Công ty P không thực hiện đề nghị này thì Công ty chúng tôi sẽ khởi kiện ra toà án.

Ngày 20/5/2023, Công ty D nhận được Công văn số 27-2023/CV-TGP đề ngày 16/5/2023 của Công ty P khẳng định không vi phạm hợp đồng và cho rằng Công ty D đơn phương chấm dứt Hợp đồng.

Căn cứ Điều 4 của Hợp đồng số 01/2022/HĐCCN: "Hai Bên cam kết thực hiện nghiêm túc các điều khoản đã thoả thuận, không đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ Hợp đồng. Nếu có sự thay đổi về tất cả các điều khoản trên, hai bên sẽ chủ động gặp nhau thương lực và thống nhất bằng văn bản. Nếu hai Bên không tự giải quyết được thì sẽ tuân thủ vào phán quyết của Toà án". Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Công ty D đề nghị Tòa án giải quyết với các nội dung sau:

- Tuyên bố chấm dứt Hợp đồng số 01/2022/HĐCCN ngày 07/5/2022 về việc cung cấp nước uống ION kiềm đóng chai 500ml được ký giữa Công ty Cổ phần Đầu tư D và Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P.

- Buộc Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P phải trả lại cho Công ty Cổ phần Đầu tư D số tiền đã đặt cọc là 45.800.000 đồng.

Đại diện Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P trình bày: Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P xác định có đề nghị với Công ty Cổ phần Đầu tư D thay đổi mẫu chai với dung tích từ 500ml xuống còn 470ml, điều chỉnh lại thông tin nhãn độc quyền. Tuy nhiên thể tích nước trong chai, trọng lượng là không thay đổi, vẫn đủ 470ml.

Trường hợp Công ty Cổ phần Đầu tư D thống nhất với mẫu chai 470ml hoặc sử dụng mẫu khác vẫn đủ dung tích 500ml thì hai bên tiếp tục thực hiện hợp đồng.

Trường hợp không tiếp tục hợp đồng, Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P thống nhất chấm dứt Hợp đồng số 01/2022/HĐCCN ngày 07/5/2022 về việc cung cấp nước uống ION kiềm đóng chai 500ml được ký với Công ty Cổ phần Đầu tư D.

Tuy nhiên, số tiền đã đặt cọc 45.800.000đ (bốn lăm triệu, tám trăm ngàn đồng) là tiền để làm trục in và nhãn với số lượng 100.000 chai. Nay Công ty P đã làm xong số lượng nhãn, trục in nên không thể trả lại toàn bộ tiền cho Công ty Cổ phần Đầu tư D. Công ty P đề xuất sẽ chịu 30% và Công ty D chịu 70% trên số tiền đặt cọc 45.800.000 đồng.

Đại diện nguyên đơn Công ty Cổ phần Đầu tư D trình bày: Công ty D không đồng ý với việc thay đổi mẫu chai hoặc sử dụng chai 470ml, cũng không đồng ý chịu thiệt hại 70% số tiền đặt cọc. Đề nghị Tòa án căn cứ thỏa thuận của các bên tại Hợp đồng số 01/2022/HĐCCN và quy định của pháp luật để giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các t liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi nghe các đương sự trình bày ý kiến, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Công ty Cổ phần Đầu tư D khởi kiện Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P; địa chỉ trụ sở tại: Thôn Đ, xã Hòa S, huyện H, thành phố Đ về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” tại Tòa án nhân dân huyện H, TP. Đ. Căn cứ, quy định tại Điều 30, Điều 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án Tòa án nhân dân huyện H thụ lý giải quyết đơn khởi kiện của Công ty Cổ phần Đầu tư D là đúng thẩm quyền.

[2] Về nội dung:

[2.1] Công ty Cổ phần Đầu tư D khởi kiện Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P yêu cầu Tòa án:

Tuyên buộc chấm dứt Hợp đồng số 01/2022/HĐCCN ngày 07/5/2022 về việc cung cấp nước uống ION kiềm đóng chai 500ml được ký giữa Công ty Cổ phần Đầu tư D với Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P.

Buộc Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P phải trả lại cho Công ty Cổ phần Đầu tư D số tiền đã đặt cọc là 45.800.000 đồng.

[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần Đầu tư D thì thấy: Giữa Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P với Công ty Cổ phần Đầu tư D xác nhận ngày 07/5/2022 hai công ty có ký Hợp đồng cung cấp nước uống đống chai số 01/2022/HĐCCN (sau đây gọi tắt là Hợp đồng số 01/2022/HĐCCN). Hiện nay các bên thực hiện chưa đúng theo nội dung thỏa thuận theo hợp đồng nên việc Công ty Cổ phần Đầu tư D khởi kiện là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật nên được pháp luật bảo vệ.

Xét nội dung và quá trình thực hiện hợp đồng thì thấy:

Tại khoản 1 Điều 1 của Hợp đồng số 01/2022/HĐCCN xác định tên hàng, quy cách, đơn giá là nước uống ion kiềm đóng chai 500ml, tại khoản 3 xác định sản phẩm được đóng nguyên trong một chai, có đầy đủ nhãn được thiết kế theo yêu cầu của bên Công ty Cổ phần Đầu tư D.

Sau khi ký hợp đồng giữa Công ty Cổ phần Đầu tư D với Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P đã đưa ra và cùng thống nhất được kiểu dáng mẫu chai loại dung tích chai 500ml. Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P đã hai lần giao hàng với kiểu dáng loại chai dung tích chai 500ml và được Công ty D đồng ý nhận hàng.

Đang trong thời gian thực hiện hợp đồng, Công ty P thay đổi mẫu chai xuống với loại chai có dung tích 470ml mà không bàn bạc, trao đổi với Công ty D nên Công ty D không chấp nhận.

Việc Công ty P thay đổi dung tích chai nước từ 500ml xuống 470ml là không thực hiện đúng hợp đồng, phía Công ty P cũng đã thừa nhận hiện nay không còn mẫu chai loại dung tích 500ml như hai lần giao hàng trước (Hai Công ty đã thống nhất loại chai). Đồng thời, đưa ra loại chai có dung tích 500ml mới nhưng khác với kiểu dáng hai công ty thống nhất trước đây (Mẫu mới có hình thức chai giống chai nước Aquafina) và đã hai lần Công ty D nhận hàng.

Tại các văn bản ngày 05/01/2023, ngày 11/02/2023, ngày 05/5/2023 trả lời của Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P xác định mình đã thay đổi dung tích. Tại các văn bản phúc đáp của Công ty D không đồng ý với việc thay đổi dung tích và kiểu dáng mà Công ty P đã thay đổi. Đại diện bị đơn cũng xác định do Công ty P đã in nhảm hàng cho Công ty D với số lượng lớn nên không thể trả lại được toàn bộ số tiền cho công Công ty D mà đưa ra phương án chịu thiệt hại 30%, Công ty D chịu thiệt hại 70% trên số tiền 45.800.000 đồng đã đặt cọc.

Tại Điều 4 của Hợp đồng số 01/2022/HĐCCN: “Hai Bên cam kết thực hiện nghiêm túc các điều khoản đã thoả thuận, không đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ Hợp đồng. Nếu có sự thay đổi về tất cả các điều khoản trên, hai bên sẽ chủ động gặp nhau thương lượng và thống nhất bằng văn bản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 34, Điều 39 Luật Thương mại thì Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P phải có nghĩa vụ giao hàng đúng cách thức đóng gói trong hợp đồng. Do Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P không giao hàng đúng loại chai có dung tích 500ml như hai bên thỏa thuận nên Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P đã vi phạm hợp đồng. Do đó, Công ty Cổ phần Đầu tư D từ chối nhận hàng và đề nghị chấm dứt hợp đồng là đúng quy định của khoản 2 Điều 39 và Điều 310 Luật Thương mại nên yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần Đầu tư D là có sở chấp nhận.

Đối với tiền phạt cọc, tiền lãi Công ty Cổ phần Đầu tư D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P phải chịu.

Hoàn trả tiền tạm ứng án phí KDTM cho Công ty Cổ phần Đầu tư D.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 34, Điều 39, Điều 310 Luật Thương mại; Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 147, Điều 273, 278 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần Đầu tư D đối với Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”.

Tuyên xử:

1. Hợp đồng cung cấp nước uống đống chai số 01/2022/HĐCCN ngày 07/5/2022 ký giữa Công ty Cổ phần Đầu tư D với Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P chấm dứt hiệu lực, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Buộc Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P phải trả lại số tiền cọc 45.800.000đ (bốn mươi lăm triệu, tám trăm ngàn đồng) cho Công ty Cổ phần Đầu tư D.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành, thì còn phải trả tiền lãi theo mức lãi suất thỏa thuận của các bên nhưng không vượt quá mức lãi suất theo quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng số tiền chậm thi hành án tại thời điểm t toán.

3. Án phí Kinh doanh thương mại sơ thẩm: Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P phải chịu là 3.000.000đ (ba triệu đồng).

Hoàn trả lại cho Công ty Cổ phần Đầu tư D số tiền tạm ứng án phí 3.000.000đ (ba triệu đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000367 ngày 28/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, TP. Đ.

4. Về kháng cáo: Nguyên đơn Công ty Cổ phần Đầu tư D, bị đơn Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2, Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp mua bán hàng hóa số 05/2023/KDTM-ST

Số hiệu:05/2023/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà Vang - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 17/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về