Bản án về tranh chấp ly hôn và yêu cầu nuôi con số 96/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ QUAO, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 96/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/10/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ YÊU CẦU NUÔI CON

Ngày 12 tháng 10 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 191/2022/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 08/9/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 71/2022/QĐST-HNGĐ ngày 26/9/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn L - sinh năm 1974 (có đơn xin vắng mặt). Địa chỉ: Ấp Ph, xã V, huyện G, tỉnh K.

2. Bị đơn : Bà Thị L1 - sinh năm 1978 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Ph, xã V, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 04/5/2022 nguyên đơn anh Nguyễn Văn L trình bày: Tôi và vợ tôi có tìm hiểu nhau trước được khoảng 02 năm nên đến năm 1999 chúng tôi được cha mẹ hai bên tổ chức đám cưới theo phong tục của địa phương, hôn nhân tự nguyện và chúng tôi có đăng ký kết hôn trễ hạn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện G, tỉnh K vào ngày 05/9/2006.

Sau khi kết hôn vợ chồng tôi sống hạnh phúc được 21 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do tính tình không phù hợp nhau, thường xuyên cải vả và hiện nay bà L1 có người khác nên chúng tôi đã ly thân cách nay 02 năm. Nay, xét thấy cuộc sống hôn nhân không còn hàn gắn được nữa, vợ chồng không còn tình cảm với nhau nên tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với vợ tôi là Thị L1.

Về con chung: Quá trình chung sống chúng tôi có 02 người con chung tên Nguyễn Thị Mỷ H- sinh ngày 06/7/2000 và Nguyễn Chí Ng - sinh ngày 17/12/2004, hiện nay cháu H đã trưởng thành và có gia đình riêng nên tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết còn cháu Nghiệp đang sống với vợ tôi nên tôi đồng ý giao cháu Ng cho vợ tôi được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung và tôi không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Tôi xác định vợ chồng không có tài sản chung và cũng không thiếu nợ ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nguyện vọng:

Về hôn nhân: Tôi xin được ly hôn với vợ tôi là Thị L1.

Về con chung, về tài sản chung và nợ chung: Như tôi đã trình bày trên, tôi không có yêu cầu gì thêm.

Đối với bà Thị L1 trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ chị L1 nhiều lần nhưng chị vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang có ý kiến:

Về tố tụng: Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, người tham gia tố tụng; việc thu thập tài liệu, chứng cứ, cấp tống đạt cho người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát đúng quy định. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự chấp hành đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn đã được thông báo và tống đạt các văn bản tố tụng đúng quy định nhưng vắng mặt tại phiên là không tuân thủ quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của đương sự cũng như tại phiên tòa hôm nay, đối chiếu với các quy định của pháp luật đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho ông Nguyễn Văn L được ly hôn với bà Thị L1. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Chí Ng - sinh ngày 17/12/2004 cho bà Thị L1 được tiếp tục, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng còn cháu Nguyễn Thị Mỷ H - sinh ngày 06/7/2000 đã trưởng thành và có gia đình riêng nên không xem xét. Về cấp dưỡng nuôi con:

Miễn xét. Về tài sản chung và nợ chung: Miễn xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp giữa ông Nguyễn Văn L và bà Thị L1 là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 28 và Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Ông Nguyễn Văn L là nguyên đơn và bà Thị L1 là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng ông L có đơn xin xét xử vắng mặt còn bà L1 được Tòa án tống đạt và niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng tại nơi bà có hộ khẩu thường trú theo quy định của pháp luật nhưng bà Thị L1 không có mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 và Điêu 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông L và bà L1 là phù hợp.

[2] Về hôn nhân: Ông Nguyễn Văn L và bà Thị L1 kết hôn với nhau vào năm 1999, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn trễ hạn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện G, tỉnh K vào ngày 05/9/2006 cho nên hôn nhân của ông bà là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

[3] Xét về quan hệ hôn nhân cho thấy: Dù hôn nhân của ông L và bà Thị L1 là hôn nhân tự nguyện, trước khi kết hôn ông bà có tìm hiểu nhau trước nhưng chưa tìm hiểu kỹ cá tính của nhau, vì vậy khi xác L cuộc sống chung vợ chồng thì lại bộc lộc ra những cá tính không phù hợp. Ông L cho rằng do tính tình không phù hợp nhau, thường xuyên cải vả và hiện nay bà L1 có người khác nên vợ chồng đã ly thân cách nay 02 năm. Do đó, ngày 22/8/2022 và ngày 08/9/2022 Tòa án đã tiến hành hòa giải để động viên, giải thích giúp vợ chồng ông bà đoàn tụ nhưng bà L1 không có mặt tại Tòa án nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của bà L1. Xét thấy, vợ chồng ông bà đã sống ly thân với nhau cách nay 02 năm do bà L1 bỏ địa phương đi và ông L có tìm kiếm nhưng không gặp được bà L1. Đồng thời, ông L cũng tỏ rõ thái độ không còn tình cảm và yêu thương bà L1 nên cương quyết xin ly hôn với bà. Từ đó, cho thấy mâu thuẫn ông bà đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông L.

Đối với bà Thị L1, trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án kết hợp với chính quyền địa phương trực tiếp đến nhà bà L1 tống đạt các văn bản đúng theo qui định của pháp luật và thông báo cho bà L1 trên phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng tại nơi bà có hộ khẩu thường trú theo quy định của pháp luật nhưng bà L1 không có mặt tại Tòa án để làm các văn bản gửi cho Tòa án nên không có căn cứ để xem xét ý kiến của bà L1. Từ đó, cho thấy bà Thị L1 đã biết được nội dung yêu cầu xin ly hôn của ông L. Do đó, HĐXX thống nhất xét xử vắng mặt bà theo qui định của pháp luật.

[4] Về con chung: Ông Nguyễn Văn L xác định ông và bà Thị L1 có 02 người con chung tên Nguyễn Thị Mỷ Huyền - sinh ngày 06/7/2000 và Nguyễn Chí Nghiệp - sinh ngày 17/12/2004, hiện nay cháu Huyền đã trưởng thành và có gia đình riêng nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết còn cháu Nghiệp đang sống với bà L1 nên ông đồng ý giao cháu Nghiệp cho bà L1 được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung và ông không phải cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án thì ông L xác định khi bà L1 bỏ địa phương đi đã dắt cháu Nghiệp theo đến nay đã 02 năm và hiện nay ông không biết cháu Nghiệp đang ở đâu. Đồng thời, chính quyền địa phương xác nhận hiện nay cháu Nghiệp con của ông L và bà L1 không có ở địa phượng nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của cháu Nghiệp được nhưng ông L đồng ý giao cháu Nghiệp cho bà L1 được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Do đó, HĐXX ghi nhận sự tự nguyên này của ông L.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa các đương sự không có yêu cầu nên HĐXX không xem xét.

Ông Nguyễn Văn L có quyền tới lui thăm nom con chung, không ai có quyền cản trở ông thực hiện quyền này. Khi cần thiết, ông bà có quyền làm đơn xin thay đổi quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Ông Nguyễn Văn L xác định ông và bà Thị L1 không có tài sản chung và không có thiếu nợ ai nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Tại phiên tòa sau khi xem xét lời trình bày của nguyên đơn và đại diện Viện kiểm sát có quan điểm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí hôn nhân sơ thẩm là: 300.000 đồng ông Nguyễn Văn L phải nộp do ông có yêu cầu xin ly hôn nhưng ông được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà ông đã nộp trước đây là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0008848, ngày 10/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang. Như vậy, ông Nguyễn Văn L đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm. Về chi phí đăng thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng ông Nguyễn Văn L tự nguyện nộp và đã nộp xong.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 131 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho ông Nguyễn Văn L được ly hôn với bà Thị L1.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Chí Ng - sinh ngày 17/12/2004 cho bà Thị L1 được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Miễn xét.

Ông Nguyễn Văn L có quyền tới lui thăm nom con chung, không ai có quyền cản trở ông thực hiện quyền này. Khi cần thiết, ông bà có quyền làm đơn xin thay đổi quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

4. Về tài sản chung và nợ chung: HĐXX miễn xét.

5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm là: 300.000 đồng ông Nguyễn Văn L phải nộp do ông có yêu cầu xin ly hôn nhưng ông được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà ông đã nộp trước đây là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0008848, ngày 10/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang. Như vậy, ông Nguyễn Văn L đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm. Về chi phí đăng thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng ông Nguyễn Văn L tự nguyện nộp và đã nộp xong.

Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án là ngày 12/10/2022.

Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và yêu cầu nuôi con số 96/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:96/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Quao - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về