Bản án về tranh chấp ly hôn và quyền nuôi con khi ly hôn số 26/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÀNG LONG, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 26/2024/HNGĐ-ST NGÀY 05/04/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ QUYỀN NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 05 tháng 4 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Càng Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 32/2024/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2024. Về tranh chấp ly hôn và quyền nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2024/QĐXXST-HN ngày 19 tháng 02 năm 2024 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Thạch Thị T, sinh năm 1982. Địa chỉ: ấp S, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

Bị đơn: Ông Thạch Sa M, sinh năm 1980. Địa chỉ: ấp S, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Thạch Thị T trình bày: Bà với ông Thạch Sa M kết hôn năm 2001, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, nữ trang cưới có cho 1,5 chỉ vàng 24Kra nhưng đã bán không còn. Sau khi cưới thì vợ chồng sống bên nhà cha mẹ ruột của bà, sống hạnh phúc được một thời gian đến năm 2006 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông Sa M thường xuyên đi nhậu về kiếm chuyện với mọi người trong gia đình, đập phá đồ đạc trong nhà, nên vợ chồng đã xảy ra cự cãi với nhau và ông Sa M đã bỏ ra ngoài chồi sống riêng từ năm 2022, từ đó mà vợ chồng ly thân nhau cho đến nay mạnh ai nấy sống. Nay tình cảm vợ chồng cũng không còn, hàn gắn không hạnh phúc bà yêu cầu ly hôn với ông Thạch Sa M.

- Về con chung: Bà và ông Sa M sống với nhau có 03 người con chung tên Thạch Thị Hồng T1, sinh 24/10/2002; Thạch Thị Ngọc T2, sinh 14/10/2004 và Thạch Thị Mỹ N, sinh 25/10/2008; khi ly hôn đối Hồng Trúc và Ngọc T2 đã trưởng thành bà không yêu cầu giải quyết, đối với Mỹ N thì bà T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng và không yêu cầu ông Sa M phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung; Về nợ chung phải thu, phải trả: Bà Trưng khai không có, không yêu cầu giải quyết.

Ông Thạch Sa M vắng mặt nên không có lời trình bày.

Vị đại điện Viện kiểm sát nhân dân huyện C trình bày quan điểm cho rằng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi Tòa án thụ lý đến thời điểm này thẩm phán đã chấp hành đúng quy định theo Điều 48 của Bộ Luật tố tụng dân sự, đảm bảo về thẩm quyền, quan hệ tranh chấp, xác định tư cách người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, thời gian ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát, cấp tống đạt các văn bản tố tụng, đã thực hiện đầy đủ và đúng quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa Hội đồng xét xử thực hiện đầy đủ và đúng theo trình tự pháp luật quy định của phiên tòa sơ thẩm.

Việc chấp hành pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng đối với nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định Điều 70, 71 của Bộ Luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện nghiêm quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ Luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Vị đại diện Viện kiểm sát áp dụng khoản 1 Điều 28, 35, 39, 147, 227 và Điều 228 của Bộ Luật tố tụng dân sự; Áp dụng các Điều 19, 51, 54, 56, 58, 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của bà Thạch Thị T.

Về hôn nhân: Cho bà Thạch Thị T được ly hôn với ông Thạch Sa M.

2. Về con chung: Cho bà Thạch Thị T được quyền nuôi dưỡng cháu Thạch Thị Mỹ N, sinh 25/10/2008.

3. Về cấp dưỡng nuôi con do bà Thạch Thị T không yêu cầu, đề nghị không xem xét.

4. Về tài sản chung; Về nợ chung phải thu phải trả: Không yêu cầu giải quyết, đề nghị không xem xét.

5. Về án phí: Đương sự có nghĩa vụ nộp theo quy định pháp luật, trừ trường hợp miễn nộp hoặc không phải nộp.

Tại phiên tòa bà Thạch Thị T là nguyên đơn có đơn yêu cầu vắng mặt; ông Thạch Sa M là bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của đương sự trong vụ án và quan điểm của Viện kiểm sát. Tòa án nhân dân huyện Càng Long nhận định:

Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Trưng khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Sa M. Đây là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ Luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Trưng và ông Sa M có nơi cư trú tại ấp S, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Căn cứ vào khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ Luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Càng Long có thẩm quyền giải quyết vụ án.

Về nội dung:

[3] Bà Trưng và ông Sa M xác lập quan hệ hôn nhân năm 2001, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh theo quy định của pháp luật được thể hiện tại giấy chứng nhận kết hôn số 71 ngày 26/5/2006. Từ đó xác định hôn nhân giữa bà T với ông Sa M là hôn nhân hợp pháp.

[4] Xét về nguyên nhân mâu thuẫn: Theo bà T cho rằng do ông Sa M thường xuyên đi nhậu về kiếm chuyện với mọi người trong gia đình, đập phá đồ đạc trong nhà, nên vợ chồng đã xảy ra cự cãi với nhau và vợ chồng ly thân nhau từ năm 2022 cho đến nay mạnh ai nấy sống. Nay bà yêu cầu được ly hôn với ông Sa M.

Căn cứ vào biên bản xác minh từ phía địa phương và người biết sự việc cung cấp thì cuộc sống vợ chồng bà T và ông Sa M không hạnh phúc, cứ cự cãi nhau thường xuyên do ông Sa M không lo làm ăn, không cùng bà T để lo cho gia đình và con cái mà ông Sa M thường xuyên uống rượu say về chửi bới, đập phá đồ trong gia đình, được địa phương nhiều lần mời giáo dục nhưng vẫn không sửa đổi. Từ đó mà vợ chồng đã không còn sống chung với nhau hơn một năm nay mạnh ai nấy sống. Và tại các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bà T cũng xác định tình cảm vợ chồng giữa bà và ông Sa M không còn, hàn gắn không hạnh phúc.Từ đó nhận thấy mâu thuẫn giữa bà T với ông Sa M là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T. Cho bà T và ông Sa M được ly hôn với nhau là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Về con chung: Có 03 người con tên Thạch Thị Hồng T1, sinh 24/10/2002; Thạch Thị Ngọc T2, sinh 14/10/2004 và Thạch Thị Mỹ N, sinh 25/10/2008; khi ly hôn đối với Hồng T1 và Ngọc T2 đã trưởng thành bà T không yêu cầu giải quyết Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với Mỹ N thì bà T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng; xét thấy căn cứ vào lời khai thì nguyện vọng của cháu Mỹ N muốn được tiếp tục sống với bà T. Do đó để đảm bảo tốt về điều kiện nuôi dưỡng cũng như phù hợp với nguyện vọng cháu Mỹ N. Hội đồng xét xử xét thấy khi ly hôn giao bà T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Mỹ N là phù hợp với Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Trưng chưa đặt ra yêu cầu ông Sa M phải cấp dưỡng nuôi cháu Mỹ N nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về tài sản chung; Về nợ chung phải thu, phải trả: Đương sự chưa đặt ra yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Quan điểm của Vị kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Càng Long được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bà T có nghĩa vụ chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; Điều 227; 228; 238 và khoản 1 Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 19, 56, 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Thạch Thị T.

Về hôn nhân: Bà Thạch Thị T và ông Thạch Sa M được ly hôn.

2. Về con chung: Tên Thạch Thị Hồng T1, sinh 24/10/2002 và Thạch Thị Ngọc T2, sinh 14/10/2004 đã trưởng thành không xem xét giải quyết.

Đối với Thạch Thị Mỹ N, sinh 25/10/2008; khi ly hôn giao bà Thạch Thị T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, người không nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Đương sự chưa đặt ra yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về tài sản chung; về nợ chung phải thu, phải trả: Đương sự chưa đặt ra yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về án phí sơ thẩm: Bà Thạch Thị T có nghĩa vụ nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân. Đối với số tiền 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí mà bà T đã nộp theo biên lai thu tiền số 000137 ngày 05 tháng 01 năm 2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Càng Long được khấu trừ số tiền án phí mà bà T có nghĩa vụ chịu, do đó bà T không phải nộp.

Ông Thạch Sa M không phải chịu án phí sơ thẩm.

“ Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết ”.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và quyền nuôi con khi ly hôn số 26/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:26/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Càng Long - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:05/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về