Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 93/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 93/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 23 tháng 6 năm 2022, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:

34/2022/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2022 về “Tranh chấp về ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Phan Thị T, sinh năm 1987. Địa chỉ: thôn P, xã T, huyện Q, tỉnh N. Vắng mặt.

- Bị đơn: anh Nguyễn Rô Đ, sinh năm 1987. Địa chỉ: thôn C, xã A, huyện Q, tỉnh N. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 29/7/2021, đơn xin giải quyết và xét xử vắng mặt, nguyên đơn - chị Phan Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Nguyễn Rô Đ xây dựng gia đình vào ngày 03/5/2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện Q, tỉnh N. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Đ không có trách nhiệm với gia đình, không quan tâm, chăm sóc vợ con. Sau khi sinh con, chị đã về nhà cha mẹ ruột sinh sống và anh, chị đã sống ly thân từ năm 2012 cho đến nay. Nay, chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ.

Về con chung: có 01 cháu tên Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 14/7/2012. Khi ly hôn, chị T có nguyện vọng được tiếp tục nuôi con và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Tại bản tự khai và đơn xin giải quyết vắng mặt, bị đơn - anh Nguyễn Rô Đ trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: anh thống nhất với phần trình bày của chị T về thời gian và điều kiện kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc và có được 01 con chung vào năm 2012. Tuy nhiên, đến năm 2014 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, không còn quan tâm nhau và sống ly thân từ đó đến nay. Nay chị T yêu cầu giải quyết ly hôn thì anh thống nhất ly hôn.

Về con chung: có 01 cháu tên Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 14/7/2012. Hiện nay, cháu Đ đang sống cùng chị T nên anh thống nhất tiếp tục giao cháu Đ cho chị T nuôi dưỡng và anh tự cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn và nuôi con của chị Phan Thị T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: tại phiên tòa, các đương sự đều vắng mặt và có đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự tại phiên tòa.

[2]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: chị Phan Thị T có quan hệ hôn nhân hợp pháp với anh Nguyễn Rô Đ, địa chỉ: thôn C, xã A, huyện Q, tỉnh N. Nay, chị T khởi kiện xin ly hôn với anh Đ và yêu cầu được nuôi dưỡng con chung nên quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp về ly hôn và nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam theo khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3]. Về quan hệ hôn nhân: chị T và anh Đ tự nguyện kết hôn và được Uỷ ban nhân dân xã A, huyện Q, tỉnh N cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 14 ngày 03 tháng 5 năm 2012. Quá trình chung sống, anh chị phát sinh mâu thuẫn; chị T cho rằng nguyên nhân là do anh Đ không có trách nhiệm với gia đình, không quan tâm, chăm sóc vợ con. Anh Đ cũng thừa nhận từ năm 2014 đến nay, vợ chồng không còn quan tâm nhau và đã sống ly thân. Đồng thời, anh cũng thống nhất yêu cầu xin ly hôn của chị T. Điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị T và anh Đ đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T là phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4]. Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, chị T và anh Đ có 01 con chung tên là Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 14/7/2012. Hiện nay, cháu Đ đang sống cùng chị T, khi ly hôn chị T có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Đ và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Đ cũng thống nhất tiếp tục giao cháu Đ cho chị T nuôi dưỡng. Tại bản tự khai, cháu Đ có nguyện vọng sống với mẹ sau khi ba mẹ ly hôn. Do đó, Hội đồng xét xử cần chấp nhận giao cháu Nguyễn Hải Đ cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Về cấp dưỡng nuôi con, chị T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét; anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5]. Về tài sản chung và nợ chung: không có nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[6]. Về án phí: án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm chị T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị T về việc "Tranh chấp về ly hôn và nuôi con".

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phan Thị T và anh Nguyễn Rô Đ.

2. Về con chung: giao cháu Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 14/7/2012 cho chị Phan Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Anh Nguyễn Rô Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Đ có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị T phải chịu, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị T đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004614 ngày 15/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

4. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo yêu cầu xét xử theo trình tự phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 93/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:93/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Sơn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về