Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 77/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GÒ CÔNG, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 77/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 05 tháng 4 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 292/2020/TLST-HNGĐ, ngày 08 tháng 10 năm 2020, về tranh chấp “Ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Thúy N, sinh năm 1985; (Xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp M, xã B, thị xã G, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1981; (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp M, xã B, thị xã G, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải nguyên đơn chị Lê Thị Thúy N trình bày: Qua tìm hiểu khoảng vài tháng, chị và anh Nguyễn Văn H tiến đến hôn nhân năm 2001, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, thị xã Gò Công năm 2004. Quá trình chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, do không hợp nhau, anh H đi làm ăn xa thường xuyên, không lo cho gia đình, nên vợ chồng mỗi khi gặp nhau là cự cãi và đã sống ly thân từ cuối năm 2018 cho đến nay. Do nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, cuộc sống hôn nhân không thể tiếp tục, chị yêu cầu được ly hôn với anh H.

Về con chung: Có hai người con chung tên Nguyễn Văn T, sinh ngày 19/11/2002 và Nguyễn Văn M, sinh ngày 23/9/2013. Khi ly hôn chị N yêu cầu được quyền nuôi dưỡng cháu M và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Cháu T đã trưởng thành tự đi làm kiếm sống nên chị không yêu cầu.

Về tài sản và nợ chung: Không có.

Anh Nguyễn Văn H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án xin ly hôn của chị N, nhưng không có ý kiến gì và vắng mặt trong các phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, nên không lấy lời khai và hòa giải được.

Tại phiên tòa:

- Chị Lê Thị Thúy N có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Anh Nguyễn Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành tố tụng đúng quy định của pháp luật. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định pháp luật. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ thẩm quyền theo quy định đối với những người tiến hành tố tụng.

- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các điều 56, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị chấp nhận yêu cầu của chị N được ly hôn với anh H; Về con chung chị N được quyền tiếp tục nuôi cháu M, anh H không cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung và nợ chung không có nên không xem xét; Về án phí sơ thẩm thì chị N chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Lê Thị Thúy N khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Văn H có nơi cư trú Ấp M, xã B, thị xã G, tỉnh Tiền Giang nên Tòa án nhân dân thị xã Gò Công thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền, quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng Dân sự. Anh Nguyễn Văn H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham dự phiên tòa, nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng, chị N có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng Dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung vụ án: Hội đồng xét xử xét thấy, anh Nguyễn Văn H và chị Lê Thị Thúy N tiến đến hôn nhân tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, nên quan hệ hôn nhân giữa hai người được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Chị N và anh H sống chung từ năm 2001. Vợ chồng sống hạnh phúc đến cuối năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, do không hợp nhau, anh H đi làm ăn xa thường xuyên, không lo cho gia đình, nên vợ chồng mỗi khi gặp nhau là cự cãi và đã sống ly thân từ cuối năm 2018 cho đến nay. Trong quá trình giải quyết, anh H đã được Tòa án thông báo thụ lý vụ án xin ly hôn của chị N, nhưng anh H không có ý kiến gì và vắng mặt trong các buổi hòa giải. Điều này chứng tỏ tình cảm của anh H đối với chị N đã không còn, mâu thuẫn giữa hai người đã trầm trọng và vợ chồng đã không còn sống chung từ năm 2019. Xét thấy hôn nhân của chị N và anh H lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, việc chị N xin ly hôn anh H là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.1] Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống anh H và chị N có hai người con chung tên Nguyễn Văn T, sinh ngày 19/11/2002 và Nguyễn Văn M, sinh ngày 23/9/2013.

Xét thấy, từ khi sinh ra cho đến nay con chung đều do chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng nên về mặt tình cảm, cháu M sẽ gắn bó với mẹ nhiều hơn. Tại bản tự khai ngày 07/12/2020, thì cháu M có nguyện vọng được sống với mẹ. Anh H vắng mặt không thể hiện ý kiến về việc nuôi con. Vì vậy, để cháu M phát triển ổn định, toàn diện thì việc giao cháu M cho chị N tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với hoàn cảnh hiện tại và nguyện vọng của con chung, nên yêu cầu của chị N về việc nuôi dưỡng con chung được Hội đồng xét xử chấp nhận. Cháu T đã trưởng thành, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Về cấp dưỡng: Chị N là người trực tiếp nuôi con, nhưng không yêu cầu anh H thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2.2] Về quan hệ tài sản chung: Chị N xác định không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về nợ chung: Chị N xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung trong thời kỳ hôn nhân thì anh H và chị N vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

[3] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng Dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, chị Lê Thị Thúy N phải chịu án phí theo quy định.

[4] Các đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Gò Công về việc giải quyết vụ án là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật và phù hợp với những nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 và các điều 57, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng Dân sự.

- Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH.14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Thúy N.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Thúy N được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

- Về quan hệ con chung: Chị Lê Thị Thúy N được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Văn M, sinh ngày 23/9/2013. Anh Nguyễn Văn H chưa thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản.

Về án phí sơ thẩm: Chị Lê Thị Thúy N phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng, theo biên lai số 0019022 ngày 08 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Gò Công. Như vậy, chị N đã nộp xong án phí.

Về quyền kháng cáo: Đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 77/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:77/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Gò Công - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:05/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về