Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 48/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC NINH – TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 48/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 21 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 82/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2021 về “tranh chấp ly hôn và nuôi con”theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2021, quyết định hoãn phiên tòa số 15/2021/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2021, thông báo thay đổi thời gian xét xử vụ án số 02/TB-TA ngày 26/7/2021, giữa các đương sự:

  1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị S, sinh năm: 1987 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: ấp 4, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước
  2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn P, sinh năm: 1989 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp 4, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo ñôn khởi kiện đề ngaøy 11 thaùng 3 naêm 2021, trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị S trình baøy:

- Về hôn nhân: Bà S tự nguyện chung sống với ông Nguyễn Văn P và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã L, huyện L vào năm 2009. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Nay nhận thấy không thể tiếp tục sống chung được nữa nên bà S xin ly hôn với ông P.

- Veà con chung: Bà S và ông P có 02 con chung tên: Nguyễn Thị Bảo T, sinh ngày 10/02/2008 và Nguyễn Văn Hoài N, sinh ngày 29/01/2012. Con sống chung với bà S từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Khi ly hôn, bà S xin được nuôi hai người con chung không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con. Ngoài ra hiện bà S không mang thai, vợ chồng không có con nuôi - Veà taøi saûn chung: Trước khi kết hôn không bên nào có tài sản riêng. Tài sản chung hiện nay vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Về nợ: Bà S và ông P không nợ ai cũng không ai nợ lại.

Đối với bị đơn ông Nguyễn Văn P vắng mặt không có lý do.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không có mặt làm việc. Căn cứ biên bản xác minh ngày 01/4/2021 của Tòa án xác minh tại Công an xã Lộc Điền xác định: ông Nguyễn Văn P có đăng ký hộ khẩu tại ấp 4, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước, ông P làm nghề tự do nên không thường xuyên ở nhà, nhưng vẫn còn ở địa phương Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án cho ông P theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên bị đơn không có văn bản trình bày ý kiến, không giao nộp tài liệu chứng cứ và không có mặt theo các thông báo, quyết định của Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh phát biểu ý kiến:

- Việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn không chấp hành pháp luật, Tòa án đã tiến hành niêm yết theo luật định. Việc xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, thực hiện thủ tục cấp tống đạt các văn bản tố tụng, thu thập chứng cứ, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát, thành phần tham gia xét xử được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh không có kiến nghị gì về tố tụng.

- Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội Đồng xét xử chaáp nhaän yeâu caàu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị S

+ Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị S và ông Nguyễn Văn P

+ Về con chung: Giao hai người con chung tên con tên Nguyễn Thị Bảo T, sinh ngày 10/02/2008 và Nguyễn Văn Hoài N, sinh ngày 29/01/2012 cho bà S nuôi dưỡng.

+ Về cấp dưỡng nuôi con và về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

+ Về nợ chung: Không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về pháp luật tố tụng: Bà Nguyễn Thị S có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn và giải quyết về nuôi con chung với ông Nguyễn Văn P nên xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là “tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Xét ông P cư trú tại xã L, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Nguyên đơn vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1 và 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà S và ông P tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 23 ngày 16/3/2009 của Ủy ban nhân dân xã L, huyện L nên có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà S và ông P là hợp pháp.

[3] Đối với yêu cầu xin ly hôn của bà S, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo đơn khởi kiện và lời khai của bà S trong quá trình giải quyết vụ án thì giữa bà S và ông P phát sinh mâu thuẫn từ năm 2013. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Đối với ông P, tại phiên Tòa ông P vắng mặt, trong quá trình giải quyết Tòa án đã triệu tập nhiều lần nhưng ông P không đến làm việc cũng như tham gia hòa giải để đưa ra ý kiến và biện pháp hàn gắn mâu thuẫn vợ chồng. Theo biên bản xác minh của Tòa án xác minh tại địa phương thì hiện ông P và bà S không còn sống chung với nhau. Như vậy, có căn cứ để xác định tình trạng hôn nhân giữa bà S và ông P đã trầm trọng, không có khả năng hàn gắn, cuộc sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà S.

[4] Về con chung: Bà S và ông P có hai người con chung tên Nguyễn Thị Bảo T, sinh ngày 10/02/2008 và Nguyễn Văn Hoài N, sinh ngày 29/01/2012, hiện con sống chung với bà S. Khi ly hôn, bà S xin nuôi hai người con chung không yêu cầu ông P cấp dưỡng. Xét trong quá trình giải quyết vụ án ông P không đến làm việc cũng không có văn bản ý kiến về việc nuôi con chung. Đối với cháu T và cháu N đã đủ 07 tuổi, Tòa án đã tiến hành lấy ý kiến của cháu theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự thì hai cháu có nguyện vọng muốn ở với mẹ. Do đó, xét yêu cầu của bà S về việc nuôi hai con là phù hợp, đảm bảo cuộc sống ổn định và điều kiện về mọi mặt của con theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà S không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con

[6] Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về nợ chung: Bà S khai không có nên không xem xét.

[8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phù hợp nhận định của Tòa án nên chấp nhận.

[9] Về án phí: Căn cứ khoản 4 điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bà S phải chịu số tiền án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ.

Vì các lẽ trên:

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 39 Bộ luật dân sự;

- Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 85 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị S

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị S và ông Nguyễn Văn P.

2. Về con chung: Giao hai người con chung tên Nguyễn Thị Bảo T, sinh ngày 10/02/2008 và Nguyễn Văn Hoài N, sinh ngày 29/01/2012 cho bà S tiếp tục nuôi dưỡng. Bà S không yêu cầu ông P cấp dưỡng Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì quyền lợi của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên theo luật định.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết

4. Về nợ chung: Không có.

5. Về án phí: Bà S chịu 300.000đ án phí Hôn nhân sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lộc Ninh theo biên lai thu tiền số 019596 ngày 22/3/2021.

6. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 48/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:48/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:21/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về