Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 44/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 44/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 29 tháng 9 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 106/2022/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thu H, sinh năm 1995.

Địa chỉ: Thôn N, xã H, huyện H, tỉnh T, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Thôn N, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 19/8/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Nguyễn Thu H trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn Đ tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 16/4/2015 tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh T. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đếntháng 02 năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Mâu thuẫn giữa chị và anh Đ đã được hai bên gia đình nội ngoại hòa giải nhưng vẫn không có kết quả. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị H đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn Đ.

Về con chung: Chị H khai, vợ chồng có một con chung, cháu tên là Nguyễn Linh Đ, sinh ngày 20/11/2018. Chị H đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Linh Đ, không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị, hiện chị H đang là giáo viên mầm non thu nhập hàng tháng khoảng 5 triệu triệu đồng và thu nhập thêm từ việc kinh doanh khoảng 8 triệu đồng. Tổng thu nhập hàng tháng khoảng 13 triệu đồng.

Về tài sản: Chị Nguyễn Thu H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong bản tự khai đề ngày 04/8/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là anh Nguyễn Văn Đ trình bày: anh và chị Nguyễn Thu H tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 16/4/2015 tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh T. Sau khi kết hôn, anh và chị H chung sống hạnh phúc, không có mâu thuẫn gì lớn xảy ra, trong cuộc sống giữa hai vợ chồng đôi khi có xảy ra va chạm nhỏ không phải là lý do để chị H xin ly hôn. Nay chị H đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn nên anh Đ không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh Đ khai, vợ chồng có một con chung, cháu tên là Nguyễn Linh Đ, sinh ngày 20/11/2018. Trường hợp Tòa án giải quyết ly hôn, anh Đ đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Linh Đ, không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung, hiện nay anh làm công nhân tại nhà máy xử lý nước thải thuộc ban quản lý thị xã B thu nhập hàng tháng khoảng 13 triệu đồng.

Về tài sản: Anh Nguyễn Văn Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết và quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Chị H đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn với anh Đ và được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Linh Đ, không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh Nguyễn Văn Đ đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến Tòa án để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt mà không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh Đ là phù hợp với quy  định tại khoản 2, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thu H và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống.Theo kết quả xác minh ngày 03/8/2022 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H cũng cho thấy, quá trình chung sống giữa chị H và anh Đ phát sinh nhiều mâu thuẫn, chứng tỏ đời sống chung giữa chị H và anh Đ luôn xảy ra mâu thuẫn xung đột đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho chị H được ly hôn anh Đ là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị H và anh Đ thừa nhận, vợ chồng có 01 con chung, cháu tên là Nguyễn Linh Đ, sinh ngày 20/11/2018. Cả chị H và anh Đ đều đủ điều kiện nuôi dưỡng và có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu Linh Đ. Tuy nhiên, cháu Linh Đ còn quá nhỏ lại là con gái, mặt khác chị H là giáo viên mầm non nên việc nuôi dưỡng, chắm sóc cháu Linh Đ là phù hợp hơn. Do đó, giao cháu Linh Đ cho chị H trực tiếp nuôi là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Ghi nhận sự tự nguyện của chị H về việc không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4]. Về tài sản: Chị H và anh Đ không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Chị Nguyễn Thu H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 6; khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thu H và anh Nguyễn Văn Đ.

2. Về con chung: Công nhận cháu Nguyễn Linh Đ, sinh ngày 20/11/2018 là con chung của chị H và anh Đ. Giao cháu Linh Đ cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H.

Anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Anh Đ không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của chị H.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thu H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2021/0004370 ngày 29/7/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị H đã nộp đủ tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 44/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:44/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về