Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 43/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 43/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 29 tháng 9 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 48/2022/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 4 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị T, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Thôn V, xã H, huyện H, tỉnh T, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Mai Xuân H, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Thôn V, xã H, huyện H, tỉnh T.

Hiện đang chấp hành án tại Trại giam số 5, Cục C10, Bộ Công an ở thị trấn T, huyện Y, tỉnh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 14/4/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Phạm Thị T trình bày: Chị và anh Mai Xuân H tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 22/9/2010 tại Uỷ ban nhân dân xã Q, thành phố T, tỉnh N. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh H chơi bời, không tu chí làm ăn, không quan tâm đến vợ con, chị T đã khuyên can nhiều lần nhưng anh H vẫn không thay đổi. Hiện nay anh H đang chấp hành án 12 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Trại giam số 5, Cục C10, Bộ Công an ở thị trấn T, huyện Y, tỉnh T. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị T đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Mai Xuân H.

Về con chung: Chị T khai, vợ chồng có hai con chung, các cháu tên là Mai Phúc H, sinh ngày 21/5/2011 và cháu Mai Thị Yến N, sinh ngày 17/02/2017. Hiện cả hai cháu H và N đang ở với chị T. Chị T đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai cháu H và N, không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Hiện tại chị T đang làm kinh doanh Spa thu nhập hàng tháng khoảng 7 triệu đến 10 triệu đồng.

Về tài sản: Chị Phạm Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai đề ngày 30/5/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, anh Mai Xuân H trình bày: anh và chị Phạm Thị T tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 22/9/2010 tại Uỷ ban nhân dân xã Q, thành phố T, tỉnh N. Vợ chồng chung sống hạnh phúc không có mâu thuẫn gì lớn xảy ra. Nay chị T đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, anh H không đồng ý.

Về con chung: Anh H khai, vợ chồng có hai con chung, các cháu tên là Mai Phúc H, sinh ngày 21/5/2011 và cháu Mai Thị Yến N, sinh ngày 17/02/2017. Hiện hai cháu H và N đang ở với chị T. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn, anh H đề nghị để chị T trực tiếp nuôi dưỡng cả hai cháu H và N anh H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Anh Mai Xuân H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết và quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Chị T đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn với anh H là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Do anh H đang chấp hành án phạt tù nên giao cả hai cháu H và N cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình, Ghi nhận sự tự nguyện của chị T về việc không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh Mai Xuân H đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến Tòa án để tham gia phiên tòa nhưng anh H không có mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị hoãn phiên tòa đến cuối tháng 12/2022, xét thấy đơn xin hoãn phiên tòa của anh H là không phù hợp với quy định tại Điều 233 Bộ luật tố tụng dân sự, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh H là phù hợp với quy định tại khoản 2, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Chị Phạm Thị T và anh Mai Xuân H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Theo chị T, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh H chơi bời, không quan tâm đến vợ con. Kết quả xác minh ngày 22/4/2022 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H cũng cho thấy, quá trình chung sống giữa chị T và anh H thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh H chơi bời, hiện nay anh H đang chấp hành hình phạt 12 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại trại giam số 5, tỉnh T. Như vậy, trong cuộc sống vợ chồng giữa chị T và anh H luôn xảy ra mâu thuẫn, xung đột, chứng tỏ đời sống chung vợ chồng đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho chị T được ly hôn anh H là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị T và anh H thừa nhận, vợ chồng có hai con chung, các cháu tên là Mai Phúc H, sinh ngày 21/5/2011 và cháu Mai Thị Yến N, sinh ngày 17/02/2017. Chị T có nguyện vọng được nuôi cả hai cháu H và N, cháu H có nguyện vọng được ở với mẹ, cháu N còn nhỏ cũng cần sự chăm sóc của mẹ, hiện nay anh H lại đang phải chấp hành án phạt tù nên không đảm bảo điều kiện để nuôi dưỡng các cháu. Do đó, giao các cháu H và N cho chị T trực tiếp nuôi là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Ghi nhận sự tự nguyện của chị T về việc không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

[4]. Về tài sản: Chị T và anh H không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Chị Phạm Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, Điều 56; Điều 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 6; khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị T và anh Mai Xuân H.

2. Về con chung: Công nhận các cháu Mai Phúc H, sinh ngày 21/5/2011 và cháu Mai Thị Yến N, sinh ngày 17/02/2017 là con chung của chị T và anh H. Giao cả hai cháu H và N cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T.

Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Anh H không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của chị T.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị T đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2021/0004292 ngày 15/4/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị T đã nộp đủ tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 43/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:43/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về