Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 29/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 29/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 09 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 617/2020/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 13/2021/QĐST-HN ngày 31 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Cao Thị Thanh T, sinh năm 1988. Địa chỉ: ấp P, xã A, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Anh Võ Thành R, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Tổ 3, ấp C, xã H, huyện G, tỉnh Tây Ninh.

Tất cả vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn chị Cao Thị Thanh T trình bày: Chị và anh Võ Thành R tự nguyện chung sống với nhau vào đầu năm 2014 và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh, có tổ chức lễ cưới, ngày cưới có cho một số nữ trang nhưng hiện tại không còn vì vợ chồng bán để chi phí và trả nợ. Vợ chồng chung sống có 01 con chung tên Võ Hoàng Gia K, sinh ngày 10-02-2016, hiện chị đang nuôi dưỡng. Tài sản chung và nợ chung không có.

Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng tháng 6 năm 2015 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do anh R không chuyên tâm làm ăn phụ giúp kinh tế gia đình mà thường xuyên cờ bạc dẫn đến nợ nần, chị đã trả nhiều lần cho anh R, trong khi con còn nhỏ mà một mình chị phải lo mọi chi phí trong gia đình, chị khuyên nhủ nhiều lần và cho anh R nhiều cơ hội nhưng anh vẫn không từ bỏ cờ bạc nên vợ chồng sống ly thân từ tháng 7-2017 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân cả hai bên chỉ gặp nhau một lần để làm thủ tục tách hộ khẩu nhưng không bàn bạc việc hàn gắn gia đình, mạnh ai nấy sống, không ai quan tâm chăm sóc đến ai. Chị cố gắng kéo dài thời gian xem anh R có thay đổi hay không để cùng nhau nuôi dạy con nhưng vẫn vậy. Do đó chị yêu cầu được ly hôn với anh R.

Về con chung: Chị yêu cầu được quyền trực tiếp trông nom chăm sóc nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng nuôi con để chị và anh R tự thỏa thuận không yêu cầu quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu giải quyết.

- Bị đơn anh Võ Thành R trình bày: Anh R đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị T.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự. Rêng bị đơn không thực hiện đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T; giao con chung cho chị T được quyền trực tiếp trông nom chăm sóc nuôi dưỡng, về cấp dưỡng nuôi con chị T không yêu cầu nên không xem xét giải quyết; tài sản và nợ chung, chị T khai không có nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Võ Thành R đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và chị Cao Thị Thanh T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt là phù hợp với khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị T và anh R chung sống với nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn nên được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Chị T yêu cầu ly hôn, do anh R không chuyên tâm đi làm phụ giúp kinh tế gia đình mà thường xuyên cờ bạc dẫn đến nợ nần chị phải chịu trách nhiệm trả nhiều lần, chị khuyên nhủ mà anh R vẫn không thay đổi nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc và anh chị sống ly thân từ tháng 7 năm 2017 đến nay. Xét thấy, trong thời gian sống ly thân chị T và anh R không gặp nhau tìm cách bàn bạc hàn gắn gia đình, mạnh ai nấy sống, không ai quan tâm chăm sóc đến ai và Tòa án đã tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng nhưng anh R vẫn vắng mặt, chứng tỏ anh R không có thiện chí hàn gắn gia đình. Từ những nhận định trên, có đủ căn cứ cho rằng mâu thuẫn giữa chị T và anh R lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con tên Võ Hoàng Gia K, sinh ngày 10-02-2016, Riêng anh R không ý kiến. Xét thấy, từ ngày anh chị sống ly thân cháu K sống với chị T đã ổn định và được chị trông nom, chăm sóc tốt. Do đó Hội đồng xét xử cần giao con chung cho chị T được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Riêng việc cấp dưỡng nuôi con chị T không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị T khai không có nên không xem xét giải quyết. Trường hợp sau này anh R có tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí: Chị T phải chịu án phí theo quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81 và Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Cao Thị Thanh T với anh Võ Thành R. Chị T được ly hôn với anh R.

2. Về con chung: Giao cho chị T được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con tên Võ Hoàng Gia K, sinh ngày 10-02-2016. Chị T không yêu cầu nên anh R không cấp dưỡng nuôi con.

Anh R có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị T không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí sơ thẩm hôn nhân gia đình. Khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0012492 ngày 04-11-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Dầu. Ghi nhận chị T đã nộp đủ tiền án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 29/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:29/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về