Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 21/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NÔNG CỐNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 21/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/11/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 18/11/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 103/2021/TLST- HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp Ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2021/QĐXXST-DS ngày 03/11/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Mạnh T, sinh năm 1995.

Địa chỉ: thôn NT, xã VT, huyện NC, tỉnh Thanh Hóa.

2. Bị đơn: Chị Hồ Thị V, sinh năm 1994.

ĐKNKTT: thôn NT, xã VT, huyện NC, tỉnh Thanh Hóa.

Nơi ở hiện nay: Ấp xx Làng x, xã SN, huyện CM, tỉnh Đồng Nai.

Tại phiên tòa có mặt anh T, vắng mặt chị V (chị V có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/3/2021 và quá trình giải quyết, xét xử, nguyên đơn anh Nguyễn Mạnh T trình bày:

Về hôn nhân: Anh Nguyễn Mạnh T và chị Hồ Thị V xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, tổ chức cưới có đăng ký kết hôn ngày 26/11/2015 tại Ủy ban nhân dân xã HL, huyện LH, tỉnh Hà Tĩnh. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống bình thường. Tháng 11/2017 mâu thuẫn phát sinh. Nguyên nhân là do tính tình không hợp, trong cuộc sống chị V không quan tâm đến gia đình chồng, giữa chị V và mẹ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, anh góp ý thì vợ chồng lại cãi nhau. Mỗi lần vợ chồng mâu thuẫn thì chị V lại đưa con về ngoại ở, anh lại phải vào đón về. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 11/2017 đến nay không quan tâm đến nhau. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng nên xin được ly hôn chị Hồ Thị V.

Về con chung: Anh Nguyễn Mạnh T và chị Hồ Thị V có 1 con chung là Nguyễn Mạnh T1, sinh ngày 29/11/2016. Nguyện vọng của anh nhường quyền nuôi con cho chị V, anh cấp dưỡng mỗi tháng 1.000.000đ.

Về tài sản và nợ chung: Anh Nguyễn Mạnh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa sơ thẩm, anh Nguyễn Mạnh T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Hồ Thị V, đề nghị Tòa án giao con cho chị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, anh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000đ. Về tài sản chung anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về phía chị Hồ Thị V: Anh T đã cung cấp cho Tòa án địa chỉ của chị Hồ Thị V hiện đang ở Ấp xx Làng x, xã SN, huyện CM, tỉnh Đồng Nai. Ngày 20/7/2021 TAND huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa đã ban hành Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ gửi TAND huyện CM, tỉnh Đồng Nai.

Ngày 07/10/2021 chị Hồ Thị V trình bày ý kiến:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Mạnh T xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, tổ chức cưới có đăng ký kết hôn ngày 26/11/2015 tại Ủy ban nhân dân xã HL, huyện LH, tỉnh Hà Tĩnh. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống bình thường. Quá trình chung sống anh T không có trách nhiệm vợ con, thường theo bạn bè đi uống rượu say về đánh vợ. Giữa chị và mẹ chồng có xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đồng ý ly hôn với anh Nguyễn Mạnh T, đồng thời chị cũng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Về con chung: Chị và anh T có 1 con chung tên là Nguyễn Mạnh T1, sinh ngày 29/11/2016 hiện đang ở cùng với chị. Nguyện vọng của chị xin được nuôi con không cần anh T cấp dưỡng.

Về tài sản và nợ chung: Chị V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân (Viết tắt là VKSND) huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa tại phiên tòa sơ thẩm:

+ Về tố tụng:

Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật trong việc xác định thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định tư cách tố tụng của các đương sự. Việc thực hiện các thủ tục tố tụng như ban hành và giao các văn bản tố tụng đều đúng và đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (Viết tắt là BLTTDS).

Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử (Viết tắt là HĐXX) và Thư ký phiên tòa: Tại phiên tòa, HĐXX và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của BLTTDS.

Về việc tuân theo pháp luật của các đương sự: Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quy định của BLTTDS. Tại phiên tòa vắng mặt chị V nhưng chị V đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt chị V theo khoảng 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 BLTTDS.

+ Về nội dung: Đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho anh T được ly hôn chị V. Về con chung: Đề nghị giao con chung là Nguyễn Mạnh T1 cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng, anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000đ kể từ tháng 12 năm 2021 cho đến khi con thành niên. Về tài sản và nợ chung: Do các bên đương sự không yêu cầu nên không đề nghị xem xét. Anh T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Mạnh T khởi kiện xin được ly hôn chị Hồ Thị V có hộ khẩu thường trú tại xã VT, huyện NC, tỉnh Thanh Hóa nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 36 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Khi anh T làm đơn khởi kiện việc ly hôn, chị Hồ Thị V đang làm ăn tại tỉnh Đồng Nai nên đã cung cấp địa chỉ của chị V, vì vậy Tòa án nhân dân huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa đã ra Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ cho Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai thực hiện việc ủy thác.

Tại phiên tòa sơ thẩm vắng mặt chị V, tuy nhiên chị V có đơn đề nghị được vắng mặt trong tất cả các phiên làm việc và đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Vì vậy, Tòa án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự và căn cứ vào khoản 1 Điều 228 để xét xử vắng mặt chị V là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung:

[2.1] Quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Mạnh T và chị Hồ Thị V xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã HL, huyện LH, tỉnh Hà Tĩnh, vì vậy đây là hôn nhân hợp pháp.

Đánh giá về mâu thuẫn và thực trạng quan hệ hôn nhân: Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do tính tình không hợp, trong cuộc sống vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Mỗi khi mâu thuẫn, vợ chồng mỗi người một nơi không tìm cách phục khắc phục. Điều này chứng tỏ mâu thuẫn giữa anh T và chị V đã đến mức trầm trọng, đời sống chung đã chấm dứt, mục đích hôn nhân là xây dựng gia đình hoà thuận, hạnh phúc không đạt được, quan điểm của cả hai vợ chồng đều muốn được ly hôn. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh T là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Anh T và chị V có con 1 con chung là Nguyễn Mạnh T1, sinh ngày 29/11/2016, hiện đang ở cùng với chị V. Nguyện vọng của chị V khi ly hôn là được nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng. Về phía anh T cũng đồng ý giao con cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng, trên thực tế con chung đang ở với chị V. Vì vậy, cần giao con chung cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng, anh T cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000đ kể từ tháng 12/2021 đến khi con thành niên là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2.3] Về tài sản và nợ chung: Anh Nguyễn Mạnh T và chị Hồ Thị V không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, HĐXX không xem xét, dành quyền khởi kiện cho các bên đương sự bằng vụ kiện dân sự khác.

[3] Về án phí: Anh T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84, 116, 117 và Điều 118 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228; khoản 4 Điều 147; Điều 271; khoản 1 Điều 273 BLTTDS; điểm a khoản 1 Điều 24;

điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQ14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho anh Nguyễn Mạnh T được ly hôn chị Hồ Thị V.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Mạnh T1, sinh ngày 29/11/2016 cho chị Hồ Thị V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nguyễn Mạnh T cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000đ, kể từ tháng 12 năm 2021 đến khi con thành niên.

Anh Nguyễn Mạnh T có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của con, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi nuôi con và yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về án phí: Anh Nguyễn Mạnh T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa theo biên lai thu số AA/2019/0002407 ngày 06/5/2021. Anh Nguyễn Mạnh T còn phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án, thoả thuận thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt anh T, vắng mặt chị V. Anh T được quyền kháng cáo bản sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị V được quyền kháng cáo bản sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 21/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:21/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nông Cống - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:18/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về