TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 150/2024/HNGĐ-ST NGÀY 08/05/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 08 tháng 5 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 290/2023/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 124/2024/QĐ - ST ngày 14 tháng 3 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 212/2024/QĐST-HNGĐ, ngày 10 tháng 4 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1984; địa chỉ: Xóm T, xã Đ, huyện Q, tỉnh Nghệ An (Đề nghị xét xử vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1975; địa chỉ trước khi xuất cảnh: Xóm M, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An (Vắng mặt)
Hiện không sinh sống và làm việc trên lãnh thổ Việt Nam (không rõ địa chỉ, đã được tống đạt hợp lệ các văn bản về việc mở phiên tòa lần thứ hai bằng phương thức niêm yết công khai tại nơi cư trú trước khi xuất cảnh).
- Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1943 (Mẹ đẻ của bị đơn); địa chỉ: Xóm M, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An (Vắng mặt không có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nội dung đơn khởi kiện và bản tự khai nguyên đơn chị Nguyễn Thị M trình bày:
Chị và anh Nguyễn Văn T kết hôn với nhau vào ngày 24/01/2007 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc. Sau khi kết hôn được thời gian ngắn vợ chồng phát sinh mâu thuẩn. Năm 2016, anh Nguyễn Văn T xuất khẩu lao động và hai người ly thân từ đó đến nay. Chị M chỉ biết anh T xuất khẩu lao động nhưng không biết ở quốc gia nào nên không biết địa chỉ để cung cấp cho Tòa án. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị M khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.
Con chung: Trong thời kỳ hôn nhân chị M và anh T đã có 01 con chung tên là Nguyễn Thị Thảo T1, sinh ngày 01/01/2012 chị M đang trực tiếp nuôi dưỡng, nếu được ly hôn nguyện vọng của chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
Tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn T: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án triệu tập anh T tham gia tố tụng nhưng đều vắng mặt không có lý do. Chị M và mẹ của anh T không cung cấp được địa chỉ cụ thể nơi anh T cư trú. Tòa án đã ttống đạt Thông báo thụ lý vụ án, bản sao các tài liệu chứng cứ và các văn bản tố tụng khác cho anh T thông qua mẹ đẻ của anh ấy là bà Nguyễn Thị L, bà L đã thông báo cho anh T biết nội dung, phạm vi khởi kiện của nguyên đơn thông qua mạng xã hội nhưng anh T không có ý kiến gì.
Quá trình giải quyết vụ án cháu Nguyễn Thị Thảo T1 trình bày ý kiến nếu bố, mẹ ly hôn thì cháu chọn chị M là người trực tiếp nuôi dưỡng vì hiện nay cháu cũng đang sinh sống cùng chị M.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, thư ký đã ban hành các quyết định và thực hiện đầy đủ các trình tự thủ tục tố tụng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã tuân theo quy định pháp luật.
Đối với những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, người làm chứng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại các Điều 70, 71, 77 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Nguyễn Văn T đã được mẹ đẻ của mình cung cấp các thông tin về việc nguyên đơn khởi kiện vụ án tranh chấp ly hôn và nuôi con nhưng vẫn cố tình giấu địa chỉ, không chấp hành các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự. Quyết định đưa vụ án ra xét xử, và Quyết định hoãn phiên tòa lần thứ nhất đã được tống hợp lệ nên vụ án được đưa ra xét xử theo thủ tục chung.
Về nội dung: Xét thấy nguyên đơn và bị đơn là những người đủ tuổi kết hôn, đầy đủ năng lực hành vi dân sự, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Q, tỉnh Nghệ An vào ngày 24/01/2007, không vi phạm điều cấm của luật nên hôn nhân hợp pháp. Sau khi xuất cảnh anh T không liên lạc với chị M và không chăm lo đến gia đình, điều này cho thấy mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Nguyễn Thị M ly hôn anh Nguyễn Văn T.
Về con chung: Căn cứ vào thực tiễn và nguyện vọng của cháu Nguyễn Thị Thảo T1, đề nghị giao cháu T1 cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng; nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung, nợ chung không xem xét.
Về án phí: Chị Nguyễn Thị M phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn anh Nguyễn Văn T có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú trước khi xuất cảnh tại xóm M, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Văn bản số: 30094/QLXNC-P3 ngày 10/11/2023 của Cục X- Bộ C cho biết, anh Nguyễn Văn T đã xuất cảnh qua cửa khẩu quốc tế sân bay N lần cuối là ngày 01/6/2016 đến nay chưa nhập cảnh, nên vụ án Tranh chấp ly hôn và nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37 và Điều 469 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Sự vắng mặt của đương sự: Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Văn T vắng mặt không có lý do, Tòa án đã yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ và tiến hành xác minh, lấy lời khai của bà Nguyễn Thị L là mẹ đẻ của anh T theo yêu cầu của nguyên đơn nhưng không có kết quả. Bị đơn đã được mẹ đẻ của mình thông báo nội dung và phạm vi khởi kiện của nguyên đơn mà Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã thụ lý, giải quyết nhưng không có ý kiến gì. Đến nay Tòa án vẫn không nhận được văn bản trình bày ý kiến của bị đơn, nên được coi như trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp tài liệu chứng cứ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng tại địa chỉ nơi trú cuối cùng của bị đơn trước khi xuất cảnh theo quy định. Vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 2 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự. Người làm chứng vắng mặt không có lý do, nguyên đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 2 Điều 229 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiếp tục duy trì phiên tòa.
[3] Nội dung vụ án: Đánh giá lời khai của nguyên đơn, người làm chứng và các tài liệu có tại hồ sơ Hội đồng xét xử có căn cứ để khẳng định:
3.1. Quan hệ hôn nhân:
Chị M và anh T tại thời điểm kết hôn đã đủ độ tuổi theo luật định, trên cơ sở tự nguyện hai người đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Q, tỉnh Nghệ An vào ngày 24/01/2007, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Từ khi anh T xuất cảnh không liên lạc với vợ, con, thiếu sự quan tâm đến gia đình nên đã vi phạm vào khoản 1 Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình. Nay, chị M không còn tình cảm với anh T trên thực tế hai người đã ly thân với nhau thời gian dài, xét thấy mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho chị Nguyễn Thị M được ly hôn anh Nguyễn Văn T theo quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình như đề nghị của kiểm sát viên là có căn cứ.
3.2. Con chung: Cháu Nguyễn Thị Thảo T1, sinh ngày 01/01/2012 là con chung của nguyên đơn và bị đơn, hiện nay nguyên đơn đang trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng, bị đơn đang sinh sống, lao động ở nước ngoài. Xét thấy yêu cầu của nguyên đơn về việc nuôi con chung là chính đáng, phù hợp với ý chí nguyện vọng của cháu T1 và hoàn cảnh thực tế. Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của con chung nên cần áp dụng Điều 58 Luật hôn nhân và gia đình, giao con chung cho chị Nguyễn Thị M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung Hội đồng xét xử không xem xét.
3.3. Tài sản chung, nợ chung: Chị M không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Án phí: Buộc nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo luật định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Khoản 1 Điều 19; Các Điều 51, 56, 58, 122, 123 và 127 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 1 Điều 207, Điều 147 và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 469 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị M được ly hôn bị đơn anh Nguyễn Văn T.
2. Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Thị Thảo T1, sinh ngày 01/01/2012 cho chị Nguyễn Thị M trực tiếp nuôi dưỡng đến khi trưởng thành.
3. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét.
Anh Nguyễn Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở, không được lạm dụng việc thăm nom con chung để gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung. Nếu người nào vi phạm thì người có quyền, yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con chung.
Sau khi ly hôn, vì lợi ích mọi mặt của con, khi có lý do chính đáng hoặc có căn cứ theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của một hoặc các bên thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con bằng một vụ án dân sự độc lập khác.
4. Án phí: Buộc chị Nguyễn Thị M phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí chị Nguyễn Thị T2 đã nộp thay theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004447 ngày 11/10/2023 có tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An.
5. Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.
Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 150/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 150/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/05/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về