TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 122/2023/HNGĐ-ST NGÀY 19/04/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 19 tháng 4 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 500/2022/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 12 năm 2022về tranh chấp “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2023/QĐXX-ST ngày 09 tháng 3 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2023/QĐST-HNGĐ ngày 30/3/2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:Chị Nguyễn Hồng N, sinh năm 1990 HKTT: Thôn H, xã K, huyện G, Thành phố Hà Nội Nơi ở hiện nay: Phòng N1, tòa CT C1, Khu đô thị Đ, xã Đ, huyện G, Thành phố Hà Nội
- Bị đơn:Anh Nguyễn Thành C, sinh năm 1980 Điạ chỉ: Thôn H, xã K, huyện G, Thành phố Hà Nội (Chị N có mặt tại phiên tòa, Anh C vắng mặt tại phiên tòa
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 17/10/2022 và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn Chị Nguyễn Hồng N trình bày có nội dung sau:
Về quan hệ hệ hôn nhân và tình cảm:
Chị và Anh Nguyễn Thành C kết hôn có đăng ký kết hôn ngày 30/7/2012 tại UBND xã K, huyện G, Thành phố Hà Nội. Vợ chồng kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc, có tìm hiểu, có tổ chức cưới hỏi đàng hoàng khi được sự đồng ý của hai bên gia đình.
Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống với nhau ở nhà chồng ở tại số B đường M K, G, Hà Nội. Đến cuối năm 2018 thì vợ chồng chị phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do vợ chồng chị có bất đồng quan điểm trong nhiều vấn đề của cuộc sống, không hợp nhau, không có tiếng nói chung như các vấn đề về kinh tế gia đình, nuôi dạy con cái. Năm 2021 vợ chồng chị đi làm thụ tinh nhân tạo nhưng chị không giữ được thai. Vợ chồng chị có đầu tư tiền vào tiền ảo thì bị thua lỗ hết. Vì những mâu thuẫn trên nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Khoảng giữa năm 2019 do cãi nhau, vợ chồng chị có ly thân khoảng 3 - 4 tháng. Sau khi được gia đình hai bên hòa giải thì vợ chồng quay về ở chung với nhau. Tuy nhiên mâu thuẫn vợ chồng không được cải thiện mà ngày càng trở nên trầm trọng. Vợ chồng không thể hòa hợp, thường xuyên cãi nhau, to tiếng trước mặt con. Chị nhận thấy việc để con chứng kiến bố mẹ mâu thuẫn sẽ gây ảnh hưởng đến cháu. Gia đình hai bên đã hòa giải cho vợ chồng nhiều lần nhưng không thành. Từ tháng 9 năm 2022 đến nay vợ chồng chị đã ly thân, cắt đứt hoàn toàn quan hệ tình cảm, sinh lý với nhau. Sau khi nhiều lần được Tòa án hòa giải đoàn tụ nhưng vợ chồng chị cũng không thể hàn gắn được. Vợ chồng không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Chị không còn tình cảm với Anh C và nhận thấy vợ chồng không thể hàn gắn được.
Nay chị xác định tình cảm vợ chồng đã hết, vợ chồng không thể hàn gắn được, đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Về con chung:
Chị và Anh C có 01 con chung là cháu Nguyễn Hà C2, sinh ngày 26/02/2013. Khi ly hôn, chị có nguyện vọng là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu C2. Chị không yêu cầu Anh C cấp dưỡng nuôi con nhưng nếu Anh C tự nguyện cấp dưỡng nuôi con thì chị đồng ý. Nếu Anh C được quyền nuôi con thì chị không cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay cháu C2 lúc ở với bố, lúc ở với mẹ. Tại phiên tòa Chị N đề nghị Tòa án xem xét buộc Anh C đóng góp tiền nuôi con hằng tháng là 4.000.000 đồng để đảm bảo cho cháu C2 ăn học.
Về điều kiện khả năng nuôi con: Hiện nay chị có công việc và thu nhập ổn định, chị đang làm việc ở Ngân hàng TMCP Q, thu nhập 25 triệu đồng/tháng. Hiện nay chị đang ở nhờ nhà của bố mẹ đẻ chị là ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1963 và bà Đỗ Thị T, sinh năm 1966 ở Phòng N1, tòa CT C1, Khu đô thị Đ, xã Đ, huyện G, Thành phố Hà Nội. Bố mẹ đẻ chị đồng ý để chị và cháu C2 ở nhờ cho đến khi nào chị muốn chuyển đi. Bố mẹ đẻ chị có phụ giúp chị chăm sóc cháu C2 hàng ngày.
Về tài sản chung: Chị không yêu cầu tòa án giải quyết.
Về công nợ chung:Chị không yêu cầu tòa án giải quyết.
Tại phiên Toà, Chị N vẫn giữ nguyên toàn bộ các lời khai và yêu cầu của mình. Chị N tự nguyện chịu toàn bộ án phí của vụ án. Ngoài ra Chị N không có trình bầy gì bổ sung.
Bị đơn trong vụ án là Anh Nguyễn Thành C trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án đã có lời khai và ý kiến như sau:
Về quan hệ hệ hôn nhân và tình cảm: Về thời gian, điều kiện, hoàn cảnh kết hôn anh nhất trí với lời khai của Chị N đã trình bày.
Sau khi kết hôn vợ chồng Anh C sống với nhau ở nhà của bố mẹ anh tại số B đường M K, G, Hà Nội. Quá trình chung sống vợ chồng cũng có xảy ra một vài bất đồng quan điểm trong việc cho con học trường gì. Chị N thì muốn cho con học trường Quốc tế nhưng với lương công chức của anh thì không đủ khả năng cho con học trường Quốc tế nên Chị N tự ý cho con học trường Quốc tế thì Chị N phải tự chịu học phí cho con. Ngoài ra vợ chồng còn có bất đồng quan điểm về kinh tế gia đình. Năm 2021 vợ chồng anh đi làm thụ tinh nhân tạo nhưng vợ anh không giữ được thai. Vợ chồng anh có đầu tư tiền vào tiền ảo thì bị thua lỗ hết. Ngoài ra vợ chồng không xảy ra mâu thuẫn gì lớn, không đánh cãi chửi nhau, anh không vi phạm pháp luật gì về hôn nhân gia đình. Khoảng năm 2019 vợ chồng anh có cãi nhau về việc cho cháu đi học lớp 1 thì Chị N bỏ về nhà ngoại khoảng mấy tháng xong được gia đình hòa giải vợ chồng anh lại về ở với nhau. Đến khoảng đầu tháng 10/2022 do bất đồng quan điểm nên Chị N lại bỏ về nhà ngoại, vợ chồng anh ly thân, không quan hệ tình cảm, sinh lý với nhau từ đó đến nay. Lần này thì gia đình hai bên không can thiệp vào vấn đề của vợ chồng anh. Sau khi được Tòa án hòa giải nhiều lần nhưng Chị N vẫn kiên quyết ly hôn với anh. Về nhà vợ chồng anh không nói chuyện được với nhau do Chị N đã chặn hết điện thoại và tin nhắn của anh. Đến nay anh không có biện pháp gì để Chị N quay lại với anh. Nhưng anh vẫn còn tình cảm với Chị N vì vậy anh không đồng ý ly hôn.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Hà C2, sinh ngày 26/02/2013. Nếu trường hợp Chị N kiên quyết ly hôn, anh có nguyện vọng là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu C2. Anh không yêu cầu Chị N cấp dưỡng nuôi con nhưng nếu Chị N tự nguyện cấp dưỡng nuôi con thì anh đồng ý. Nếu Chị N được quyền nuôi con thì anh không cấp dưỡng nuôi con cho Chị N mà anh tự có cách chu cấp, chăm sóc cho con. Hiện nay thì cháu C2 lúc ở với bố, lúc ở với mẹ.
Về điều kiện khả năng nuôi con: Hiện nay anh có công việc và thu nhập ổn định, anh đang làm giảng viên của Trường Đại học Tài Chính, Quản trị, Kinh doanh; thu nhập ổn định 09 triệu đồng/tháng, ngoài ra anh còn có thu nhập thêm nhưng không cố định không tính được. Hiện nay anh đang ở nhờ nhà của bố mẹ đẻ anh là ông Nguyễn Đức K1, sinh năm 1942 và bà Phạm Thị L, sinh năm 1949 ở Thôn H, xã K, huyện G, Thành phố Hà Nội. Bố mẹ đẻ anh đồng ý để anh và cháu C2 ở nhờ cho đến khi nào anh muốn chuyển đi. Bố mẹ đẻ anh đã cao tuổi nên hoàn toàn là anh chăm sóc cháu C2 hàng ngày.
Về tài sản chung: Anh không yêu cầu tòa án giải quyết.
Về công nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Anh C vắng mặt tại phiên tòa và không có văn bản gì về việc thay đổi, bổ sung ý kiến gửi Tòa án.
Đại diện viện kiểm sát tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị án như sau:
- Quá trình tiến hành tố tụng Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ thủ tục theo quy định của pháp luật.
- Đối với việc chấp hành pháp luật của đương sự:
+ Nguyên đơn chấp hành đảm bảo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
+ Bị đơn không chấp hành đầy đủ, không đưa ra tài liệu chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho mình.
* Về nội dung vụ án:
- Về quan hệ hôn nhân:
Chị Nguyễn Hồng N và Anh Nguyễn Thành C kết hôn tự nguyện có đăng ký kết hôn đầy đủ theo pháp luật. Nay Chị Nguyễn Hồng N thấy tình cảm vợ chồng đã hết không còn khả năng đoàn tụ nên xin ly hôn với Anh C. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Chị Nguyễn Hồng N.
- Về con chung:
Chị N và Anh C có 01 con chung là cháu Nguyễn Hà C2, sinh ngày 26/02/2013. Khi ly hôn Chị N và Anh C đều có nguyện vọng xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Do vậy khi ly hôn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giao con chung là cháu Nguyễn Hà C2 cho Chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tại phiên tòa Chị N đề nghị Anh C cấp dưỡng nuôi con 4.000.000 đồng/tháng ,đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đưa ra mức cấp dưỡng hàng tháng phù hợp mức sống, thu nhập sinh hoạt của Anh C và thực tế sinh hoạt chung trong địa bàn.
- Về tài sản chung và công nợ: Chị N và Anh C không yêu cầu tòa giải quyết nên đề nghị không xét.
-Về án phí: Vụ án thụ lý ngày 19/5/2021, nên áp dụng Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ ánđược công khai và xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Quan hệ pháp luật tranh chấp, Chị Nguyễn Hồng N yêu cầu xin ly hôn với Anh Nguyễn Thành C, giải quyết nuôi con chung khi ly hôn nên quan hệ pháp luật giải quyết trong vụ án là “ Tranh chấp ly hôn và nuôi con”.
Bị đơn Anh Nguyễn Thành C, đang sinh sống tại xã K, G, Hà Nội, do vậy căn cứ Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân huyện G thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và có giấy triệu tập Anh C đến tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm ngày 30/3/2023 nhưng Anh C vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử đã hoãn phiên tòa và tiếp tục đưa vụ án ra xét xử vào ngày 19/4/2023. Xét thấy, Anh C đã được triệu tập hợp lệ theo giấy triệu tập của Tòa án, đã hai lần liên tiếp vắng mặt tại phiên tòa nên Toà án tiến hành xét xử vắng mặt Anh C là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dụng vụ án, giải quyết yêu cầu của đương sự:
Về quan hệ hôn nhân:
Chị Nguyễn Hồng N và Anh Nguyễn Thành C kết hôn có đăng ký kết hôn ngày 30/7/2012 tại UBND xã K, huyện G, Thành phố Hà Nội trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc, do vậy việc kết hôn là hợp pháp.
Xét yêu cầu xin ly hôn của Chị N Hội đồng xét xử thấy rằng: Sau khi Chị N và Anh C kết hôn, thực tế vợ chồng chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong nhiều vấn đề của cuộc sống, không hợp nhau, không có tiếng nói chung như các vấn đề về kinh tế gia đình, nuôi dạy con cái. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau. Gia đình hai bên đã hòa giải cho vợ chồng nhiều lần nhưng không thành. Vợ chồng đã cắt đứt quan hệ tình cảm, sinh lý và ly thân từ tháng 9/2022 đến nay. Nay Chị N xác định tình cảm với vợ chồng đã hết, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng kéo dài, vợ chồng không thể hàn gắn được nên chị xin được ly hôn Anh Nguyễn Thành C. Quá trình giải quyết vụ án Toà án đã nhiều lần tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải nhưng vợ chồng anh, chị vẫn không đoàn tụ được và không có biện pháp nào để hàn gắn, điều này cho thấy mâu thuẫn vợ chồng Chị N Anh C là trầm trọng, vợ chồng đã ly thân một thời gian dài, tình cảm vợ chồng rạn nứt. Vì vậy Hội đồng xét xử thấy rằng cuộc sống chung giữa Chị Nvà Anh C không thể kéo dài do mâu thuẫn trầm trọng, nên yêu cầu xin ly hôn của Chị Nguyễn Hồng N là có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 19 và 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.
Về con chung:
Chị N và Anh C có 01 con chung là cháu Nguyễn Hà C2, sinh ngày 26/02/2013. Khi ly hôn Chị N và Anh C đều có nguyện vọng xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Xét điều kiện, khả năng nuôi con của Chị N, Anh C và nguyện vọng của cháu Nguyễn Hà C2 thì việc xem xét giao con cho ai nuôi dưỡng cần phải xét mọi mặt về quyền lợi của con, mặt khác cháu C2 là con gái đang độ tuổi phát triển về tâm sinh lý nên giao cho Chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mặc dù Chị N có đủ điều kiện về việc nuôi con nhưng có đề nghị Tòa án xem xét buộc Anh C đóng góp tiền nuôi con hằng tháng là 4.000.000 đồng để đảm bảo cho cháu C2 ăn học. Hội đồng xét xử xét thấy căn cứ vào nhu cầu thực tế về chi phí cho cháu C2 ăn học là tương đối lớn, mặc dù Chị N đã đáp ứng đủ, nhưng để đảm bảo trách nhiệm của người cha với con cần buộc Anh C phải có trách nhiệm đóng góp tiền nuôi con hằng tháng là 2.000.000 đồng cho Chị N kể từ tháng 5/2023 cho đến khi cháu C2 thành niên hoặc khi có yêu cầu thay đổi khác là phù hợp với Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình.
Về tài sản chung: Chị N và Anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Toà không xét.
Về công nợ: Chị N và Anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Toà không xét.
con.
Về án phí và quyền kháng cáo:
Chị Nguyễn Hồng N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Anh Nguyễn Thành C phải chịu 300.000 đồng án phí về việc cấp dưỡng nuôi Chị N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án, Anh C vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng:
Điều 28; 35; 39; 147; 227, 271 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 19; 56; 81; 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa ngày 30/12/2016.
Xö:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của Chị Nguyễn Hồng N. Chị Nguyễn Hồng N được ly hôn Anh Nguyễn Thành C.
2. Về con chung:
2.1. Chị N và Anh C có 01 con chung là cháu Nguyễn Hà C2, sinh ngày 26/02/2013. Khi ly hôn giao cho Chị N là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Hà C2.
2.2. Buộc Anh C phải có trách nhiệm đóng góp tiền nuôi con hằng tháng là 2.000.000 đồng cho Chị N kể từ tháng 5/2023 cho đến khi cháu C2 thành niên hoặc khi có yêu cầu thay đổi khác.
Anh C có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Tài sản chung vợ chồng:
Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này phát sinh tranh chấp các đương sự có quyền khởi kiện đến Toà án bằng một vụ án khác theo quy định của pháp luật.
4.Án phí:
4.1. Chị Nguyễn Hồng N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí Chị N đã nộp theo biên lai số AA/2020/0073728 ngày 30/11/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện G, Chị N không phải nộp thêm số tiền nào khác.
4.2. Anh Nguyễn Thành C phải chịu 300.000 đồng án phí về việc cấp dưỡng nuôi con.
Án xử công khai sơ thẩm.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Chị N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án, Anh C vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo qui định của pháp luật./.
Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 122/2023/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 122/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 19/04/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về