TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 100/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 27 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 116/2021/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 02 năm 2021 về việc: Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Võ Thị Ngọc D, sinh năm 1997 Địa chỉ: Ấp 1 A, xã H, huyện Đ, tỉnh L.
2. Bị đơn: Anh Phan Tấn T, sinh năm 1998 Địa chỉ: Ấp 1 A, xã H, huyện Đ, tỉnh L.
(Chị D có mặt, anh T xin vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ly hôn ngày 01 tháng 02 năm 2021 và những lời khai tiếp theo chị Võ Thị Ngọc D trình bày: Chị và anh T có tìm hiểu nhau thời gian 02 năm, sau đó chị và anh T chung sống với nhau vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Đ, tỉnh L. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được thời gian đến tháng 7 năm 2018 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân là do cuộc sống không phù hợp, đồng thời anh T không quan tâm đến gia đình, nên chị và anh T xa nhau từ tháng 01 năm 2021 cho đến nay. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin được ly hôn với anh T.
Về con chung: Chị và anh T chung sống được 01 con chung tên Phan Tấn Lộc, sinh ngày 14 tháng 3 năm 2018 (con đang sống với anh T) khi ly hôn chị đồng ý giao cho anh T tiếp tục nuôi con. Chị không cấp dưỡng.
Về T sản chung: Chị và anh T không có, nên không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có.
Tại lời trình bày của bị đơn anh Phan Tấn T: Anh xác định điều kiện kết hôn là đúng theo lời trình bày của chị D. Anh và chị D chung sống đến tháng 01 năm 2019 thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân là do cuộc sống không phù hợp, đồng thời anh nghi ngờ chị D không chung thủy, nên anh và chị D ly thân từ tháng 01 năm 2021 cho đến nay.
Nay chị D xin ly hôn, anh không đồng ý, anh xin đoàn tụ.
Về con chung: Anh và chị D chung sống được 01 con chung tên Phan Tấn Lộc, sinh ngày 14 tháng 3 năm 2017 (con đang sống với anh), nếu Tòa án có căn cứ cho ly hôn thì anh xin được nuôi con, không yêu cầu chị D cấp dưỡng.
Về T sản chung; không có. Về nợ chung: Không có.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và anh T đề nghị xin vắng mặt công khai chứng cứ, hòa giải và xin xét xử vắng mặt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các T liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Chị Võ Thị Ngọc D khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Phan Tấn T, anh T có địa chỉ tại Ấp 1 A, xã H, huyện Đ, tỉnh L, được Công an xã H xác nhận và có mặt tại địa phương nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bị đơn anh Phan Tấn T có đề nghị xét xử vắng mặt, nên căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Phan Tấn T.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị Ngọc D và anh Phan Tấn T có tìm hiểu nhau thời gian 02 năm, sau đó chị D và anh T chung sống với nhau vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hựu Thạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Nên hôn nhân giữa chị D và anh T là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3]. Trong quá trình chung sống, chị D cho rằng do cuộc sống không phù hợp, đồng thời anh T không quan tâm đến gia đình, nên chị và anh T đã ly thân từ tháng 01 năm 2021 cho đến nay. Đối với anh T cho rằng anh và chị D phát sinh mâu thuẩn từ năm 2019, nguyên nhân là do cuộc sống không phù hợp, đồng thời anh nghi ngờ chị D không chung thủy, anh và chị D xa nhau từ tháng 01 năm 2021 cho đến nay.
Thấy rằng từ khi chị D và anh T ly thân từ tháng 01 năm 2021 cho đến nay, mâu thuẫn giữa chị D và anh T cũng không được gia đình hai bên và chính quyền địa phương giải quyết. Đồng thời anh T cho rằng chị D không chung thủy với anh, đồng thời anh T không có thiện chí hàn gắn và không đưa ra được hướng đoàn tụ với chị D. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng đời sống chung vợ chồng của chị D và anh T không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu xin ly hôn của chị D đối với anh T là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[4]. Về con chung: Chị D và anh T chung sống 01 con chung tên Phan Tấn Lộc, sinh ngày 14 tháng 3 năm 2017 (con đang sống với anh T). Tại phiên tòa chị D đồng ý giao con cho anh T tiếp tục nuôi con, đối với anh T vắng mặt, nhưng tại bản tự khai anh T xin được nuôi con. Thấy rằng từ khi chị D và anh T ly thân với nhau, anh T là người trực tiếp nuôi con. Do đó để đảm bảo sự phát triển bình thường của cháu Lộc, cần tiếp tục giao cháu Lộc cho anh T nuôi dưỡng là phù hợp với điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.
Tại phiên tòa hôm nay anh T vắng mặt, nhưng tại bản tự khai anh T không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5]. Về T sản chung: Chị D anh T khai không có. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
[6]. Về nợ chung: Chị D và anh T thống nhất khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7]. Về án phí: Chị Võ Thị Ngọc D phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227 khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các Điều 9 và Điều 56 Điều 81 Điều 82 Điều 83 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Ngọc D đối với anh Phan Tấn T về việc “Ly hôn”.
Chị Võ Thị Ngọc D được ly hôn với anh Phan Tấn T.
2. Về con chung; Anh T được tiếp tục nuôi con tên Phan Tấn Lộc, sinh ngày 14 tháng 3 năm 2017(anh T đang nuôi) chị D không phải cấp dưỡng nuôi con, vì anh T không yêu cầu.
Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Khi cần thiết các bên có thể thay đổi việc nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về án phí: Chị D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0007455 ngày 02/2/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa sang án phí để thi hành. Như vậy chị D không phải nộp tiếp.
Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.
Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 100/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 100/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về