TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 74/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG
Ngày 13 tháng 09 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 206/2021/TLST- HNGĐ, ngày 21 tháng 04 năm 2022, về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2022/QĐXXST- HNGĐ, ngày 08 tháng 08 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 38/2022/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 08 năm 2022, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1979
Địa chỉ: ấp TH, xã TL, huyện CT, tỉnh KG.
(Chị H có đơn xin xét xử vắng mặt).
* Bị đơn: Anh Dương Trần Đình C, sinh năm 1980 Địa chỉ: ấp TH, xã TL, huyện CT, tỉnh KG.
(Anh C được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện đề ngày 04/04/2022, bản tự khai, lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày: Vào năm 2012, chị Nguyễn Thị H và anh Dương Trần Đình C tự nguyện chung sống với nhau có làm lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã MTA, huyện CT, tỉnh KG cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 16, ngày 27/02/2012. Trong quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng chị sống với nhau rất hòa thuận nhưng đến khoảng thời gian gần đây thì giữa anh chị xảy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm và anh chị đã nhiều lần cố gắng hàn gắn nhưng vẫn mâu thuẫn nhau. Nhận thấy không thể có một cuộc hôn nhân hạnh phúc, chị và anh C đã ly thân với nhau từ năm 2019 cho đến nay. Nay chị H cảm thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị H yêu cầu ly hôn với anh C. Về con chung: trong thời gian chung sống anh chị có 01 người con tên Dương Nguyễn Phương N, sinh ngày 24/9/2014 hiện đang sống với chị H. Về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình chung sống anh chị không có tài sản chung, không có nợ ai.
Chị Nguyễn Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong đơn xin xét xử vắng mặt anh đã yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:
- Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với anh Dương Trần Đình C;
- Về con chung: Xin được tiếp tục nuôi dưỡng người con chung tên Dương Nguyễn Phương N, sinh ngày 24/9/2014, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con;
- Về tài sản chung và nợ chung: Chị H xác định chị và anh C không có tài sản chung, không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
* Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Dương Trần Đình C đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thống báo thụ lý vụ án nhưng anh C cố tình trốn tránh không nhận nên Tòa án đã tiến hành niêm yết theo quy định của pháp luật. Qua thời gian luật định anh C vẫn không tự khai và cũng không có ý kiến gởi đến Tòa án. Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để cho vợ chồng chị Nguyễn Thị H và anh Dương Trần Đình C có cơ hội Hn gắn đoàn tụ nhưng anh C vẫn cố tình vắng mặt. Trước khi mở phiên tòa hôm nay Tòa án cũng đã triệu tập anh C đến lần thứ hai nhưng anh C vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Do đó, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và kết quả xác minh Tòa án tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
* Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, sự tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng và ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký thực hiện đúng quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Thời hạn chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định tạ i Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Về nội dung: Về hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H. Cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Dương Trần Đình C.
Về con chung: Giao cháu Dương Nguyễn Phương N, sinh ngày 24/9/2014 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, bởi vì kể từ sau khi chị Nguyễn Thị H và anh C ly thân thì chị H là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu N và theo nguyện vọng của cháu N muốn được sống với mẹ, do đó cần giao cháu N cho chị Nguyễn Thị H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng để không làm thay đổi môi trường sinh sống của cháu là phù hợp với quy định của pháp luật, chị H không yêu cầu cấp dưỡng nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H xác định là không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị H xác định là không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] - Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị H thực hiện quyền khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự là thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.
[2] - Về quan hệ pháp luật tranh chấp, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H yêu cầu ly hôn với bị đơn anh Dương Trần Đình C và yêu cầu được nuôi dưỡng con chung tên Dương Nguyễn Phương N, sinh ngày 24 tháng 9 năm 2014, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Nên quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định trong vụ án là “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung”.
[3] - Về sự có mặt của các đương sự: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn anh Dương Trần Đình C đã được Tòa án triệu tập, tống đạt xét xử hợp lệ, đúng theo quy định của pháp luật nhưng anh vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn chị Nguyễn Thị H và bị đơn anh Dương Trần Đình C.
[4] - Về nội dung: Chị Nguyễn Thị H và anh Dương Trần Đình C xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Mong Thọ A, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 16, ngày 27/02/2012 nên hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp. Xét yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H yêu cầu ly hôn với anh Dương Trần Đình C Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án chị H xác nhận, sau khi kết hôn chị và anh C sống hạnh phúc với nhau được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, theo chị H nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng ý kiến, anh C không lo làm ăn, không quan tâm vợ con từ đó chị và anh C sống ly thân với nhau từ năm 2019 đến nay. Đối với anh Dương Trần Đình C mặc dù Tòa án đã nhiều lần tống đạt Thông báo hòa giải để mở phiên hòa giải nhằm mục đích động viên chị Nguyễn Thị H và anh Dương Trần Đình C có cơ hội Hn gắn đoàn tụ nhưng anh C vẫn vắng mặt nên Tòa án không tiến Hnh hòa giải được. Đồng thời, Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến thứ hai để anh C có mặt tham gia phiên tòa nhưng tại phiên tòa sơ thẩm anh C vẫn vắng mặt, chứng tỏ anh C không muốn gặp mặt để hòa giải đoàn tụ với chị Nguyễn Thị H. Đồng thời chị Nguyễn Thị H vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn với anh C và trên thực tế anh chị đã ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy: Mâu thuẫn về hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị H và anh Dương Trần Đình C đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài chị H cương quyết yêu cầu xin được ly hôn với anh C. Nên việc xin ly hôn của chị H đối với anh C là hoàn toàn có căn cứ phù hợp tại Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị H đối với anh Dương Trần Đình C.
[5] - Về con chung: Chị Nguyễn Thị H xác nhận trong quá trình chung sống vợ chồng chị có con chung là Dương Nguyễn Phương N, sinh ngày 24/9/2014 hiện đang sống cùng chị H. Nay chị H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu N và chị không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.
Hội đồng xét xử thấy rằng kể từ sau khi 02 vợ chồng ly thân (năm 2019) cho đến nay chị H là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu N và chị vẫn chăm sóc tốt cho cháu N nên Hội đồng xét xử giao cháu N cho chị Nguyễn Thị H tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng để không làm thay đổi môi trường sinh sống của cháu và cũng là phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với nguyện vọng của con. Anh Dương Trần Đình C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về việc cấp dưỡng nuôi con: do chị Nguyễn Thị H không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[6] - Về tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã triệu tập anh C đúng theo quy định pháp luật nhưng anh C vẫn vắng mặt không lý do nên Toà án không tiến Hnh hoà giải, đối chất về tài sản chung giữa chị Nguyễn Thị H và anh C được. Hơn nữa tại bản tự khai, lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án chị Nguyễn Thị H xác nhận vợ chồng chị không tạo lập được tài sản gì chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, về phần tài sản chung HĐXX không xem xét nếu sau này các đương sự có yêu cầu thì đương sự có quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định pháp luật.
[7] - Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị H xác nhận trong quá trình chung sống vợ chồng chị không có nợ ai và không ai nợ vợ chồng chị nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[8] - Xét quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật như đã phân tích nêu trên, nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.
[9] - Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ tiền án phí nhưng chị Nguyễn Thị H được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0001216, ngày 07/04/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Khoản 1 Điều 2, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn chị Nguyễn Thị H đối với bị đơn anh Dương Trần Đình C.
1. Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H được ly hôn với bị đơn anh Dương Trần Đình C.
2. Về quan hệ con chung: Giao cháu Dương Nguyễn Phương N, sinh ngày 24/9/2014 cho chị Nguyễn Thị H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị Nguyễn Thị H không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.
Anh Dương Trần Đình C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H xác định là không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
4. Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị H xác định là không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
5. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm với số tiền là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0001216, ngày 07/04/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.
6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung số 74/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 74/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 13/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về