Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung khi ly hôn số 340/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 340/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/10/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 174/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2021, về việc: Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung khi ly hôn.

Theo Quyết định đưa ra xét xử số 77/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 9 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 72/2021/QĐST-HNGĐ ngày 12/10/2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ánh T, sinh năm 1987 ĐKHKTT: Thôn C, xã K, huyện G, thành phố Hà Nội. Chỗ ở: Thôn Y, xã D, huyện G, thành phố Hà Nội.

(Có mặt tại phiên tòa)

* Bị đơn: Anh Chu Mạnh G, sinh năm 1981 Nơi cư trú: Thôn C, xã K, huyện G, thành phố Hà Nội. (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 12/4/2021 và các lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Ánh T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Tôi và anh Chu Mạnh G kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 18/01/2006 tại UBND xã K, huyện G, thành phố Hà Nội theo quy định của pháp luật. Đây là kết hôn lần đầu của tôi.

Sau khi kết hôn, vợ chồng tôi chung sống với nhau tại nhà bố mẹ đẻ anh G tại Thôn C, xã K, huyện G, Hà Nội sinh sống cho đến nay.

Quá trình vợ chồng chung sống với nhau hòa thuận đến năm 2019 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Mặc dù hai bên gia đình đã khuyên bảo rất nhiều nhưng không đạt được kết quả gì. Đỉnh điểm mâu thuẫn là tháng 7 năm 2020, hai vợ chồng tôi cãi nhau và anh G có đánh tôi nên tôi cùng con tôi đã chuyển về nhà mẹ đẻ của tôi tại Thôn Y, xã D, huyện G, thành phố Hà Nội sinh sống từ đó cho đến nay. Kề từ ngày đó hai vợ chồng đã sống ly thân, không gặp nhau và cũng không liên lạc với nhau. Hai vợ chồng không ai quan tâm đến ai, việc ai người đó làm. Anh G không công ăn việc làm, không quan tâm gì đến vợ con. Tôi rất nhiều lần đã làm đơn ly hôn và định gửi ra Tòa án nhân dân nhưng hai bên gia đình đã khuyên bảo và anh G đã hứa thay đổi nên tôi không gửi đơn ra Tòa án để giải quyết.

Đến tháng 5 năm 2020, tôi thấy mâu thuẫn của vợ chồng tôi không có sự thay đổi gì nên tôi đã làm đơn gửi Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm để giải quyết ly hôn. Vì tôi xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh G và xác định không thể đoàn tụ chung sống với nhau được nữa nên đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Chu Mạnh G để sớm ổn định cuộc sống của tôi.

- Về con chung: Tôi và anh G có 01 con chung là Chu Bảo L, sinh ngày 12/02/2008. Khi ly hôn, tôi có nguyện vọng nuôi con chung vì hiện cháu đang ăn ở, ổn định và học tập tốt với tôi. Đồng thời, tôi có điều kiện nuôi con tốt hơn anh G. Để bảo đảm cuộc sống ổn định của tôi và con tôi kính đề nghị Tòa án xem xét giao cháu L cho tôi được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Nếu trong trường hợp tôi được nuôi con chung thì tôi không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung là động sản: Tôi và anh G tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

- Về tài sản chung là nhà đất chung: Tôi và anh G không có nhà đất chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

- Về các khoản nợ chung: Tôi và anh G không có khoản nợ chung nào và cũng không cho ai vay nợ.

- Về án phí sơ thẩm: Tôi tự nguyện chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, chị T không yêu cầu Toà án giải quyết vấn đề nào khác.

Quá trình tố tụng, Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn anh Chu Mạnh G nhưng anh G không đến Tòa án làm việc, không thể hiện ý kiến, không giao nộp, không cung cấp các tài liệu chứng cứ liên quan để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và cũng không tham gia các phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo thông báo của Tòa án.

Tại phiên tòa hôm nay:

- Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ánh T vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh Chu Mạnh G. Về con chung, chị và anh G có 01 con chung, chị xin được trực tiếp nuôi con vì hiện tại hiện cháu đang ăn ở, ổn định và học tập tốt với chị tại nhà bố đẻ chị nên có sự hỗ trợ, giúp đỡ của gia đình nhà ngoại chăm sóc cháu. Đồng thời, kể từ tháng 7/2020 cho đến nay chị đã ở tại nhà bố mẹ đẻ tại Thôn Y, xã D, huyện G, thành phố Hà Nội anh G chưa một lần đến thăm nom vợ con và không thể hiện trách nhiệm gì đóng góp nuôi con với chị.

+ Về cấp dưỡng nuôi con: chị không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con mà tùy trách nhiệm của anh G đối với con. Sau này nếu có yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con chung, chị sẽ yêu cầu bằng vụ kiện dân sự khác.

+ Về tài sản chung, nhà đất ở chung và công nợ chung: Chị T xác định chị và anh G không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Chu Mạnh G tiếp tục vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh Chu Mạnh G nhưng anh G không có mặt tại phiên tòa.

* Xác minh tại chính quyền địa phương và gia đình thể hiện: Chị T và anh G kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo phong tục từ năm 2006. Hai anh chị sống hòa thuận đến năm 2020 thì không thấy chị T sinh sống tại đại phương. Anh chị có mâu thuẫn như thế nào thì chính quyền địa phương không biết vì không yêu cầu hòa giải. Nay chị T có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh G thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung thì anh chị có 01 con chung là Chu Bảo L, sinh ngày 12/02/2008. Hiện nay theo thông tin của gia đình anh G thì cháu L đang ở với chị T. Nếu ly hôn đề nghị Tòa án căn cứ quy định của pháp luật để giải quyết. Về tài sản chung, công nợ cũng đề nghị Tòa án căn cứ quy định của pháp luật để giải quyết. Hiện nay chị T không sinh sống tại đại phương, ở đâu chúng tôi không biết. Anh Chu Mạnh G đang sống cùng bố mẹ tại Thôn C, xã K, huyện G, Hà Nội. Anh G làm nghề lái xe, thường xuyên đi sớm về muộn, không biết khi nào anh có nhà. Do vậy địa phương và gia đình không thể nhận văn bản của Tòa án giao để giao lại cho anh G, ảnh hưởng đến việc giải quyết của Tòa án.

- Đại diện VKSND huyện Gia Lâm tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử sơ thẩm và việc tuân theo pháp luật của các đương sự; Đồng thời đề xuất hướng giải quyết vụ án như sau:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự:

+ Việc thụ lý vụ án của Tòa án là đúng thẩm quyền. Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã thực hiện việc giao thông báo của Tòa án cho các đương sự, tiến hành các bước tố tụng đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ, đúng trình tự tố tụng.

+ Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chấp hành nghiêm chỉnh các thông báo, giấy báo của Tòa án. Bị đơn không đến Tòa án tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như không tham gia phiên tòa là vi phạm quyền và nghĩa vụ của đương sự.

Đề xuất hướng giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: Điều 19; khoản 1 Điều 56; Điều 59; Điều 81; Điều 82 Luật hôn nhân gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử, xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Ánh T. Cho chị Nguyễn Thị Ánh T được ly hôn với anh Chu Mạnh G.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị Ánh T và anh Chu Mạnh G có 01 con chung là Chu Bảo L, sinh ngày 12/02/2008. Quá trình tố tụng chị T trình bày nếu được ly hôn chị xin nuôi con. Do cháu L hiện đang sinh sống ổn định và học tập tốt cùng chị T. Chị T có thu nhập và chỗ ở ổn định. Anh G hiện tại không đến Tòa án làm việc, không thể hiện quan điểm có nguyện vọng nuôi con hay không. Đồng thời, xét nguyện vọng của cháu L cũng mong muốn ở với chị T. Vì vậy đề nghị HĐXX giao con chung cho chị T được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với thực tế và phù hợp với quy định pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con chung nên đề nghị tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho đến khi con chung trưởng thành, đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác.

Về tài sản chung, nhà đất ở chung và các khoản nợ chung: Chị Nguyễn Thị Ánh T trình bày không có nên đề nghị HĐXX không xem xét.

Chị Nguyễn Thị Ánh T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật. Chị Nguyễn Thị Ánh T và anh Chu Mạnh G có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa. Sau phần hỏi và tranh luận, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Ánh T xin ly hôn với anh Chu Mạnh G. Anh Chu Mạnh G có đăng ký hộ khẩu thường trú và sinh sống tại Thôn C, xã K, huyện G, thành phố Hà Nội, vì vậy yêu cầu khởi kiện của chị T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh G không hợp tác và không đến Tòa án trình bày ý kiến của mình, thể hiện anh G tự từ chối quyền và nghĩa vụ của mình. Việc bị đơn anh Chu Mạnh G vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh Chu Mạnh G.

[2] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Ánh T: Tài liệu trong hồ sơ thể hiện chị Nguyễn Thị Ánh T và anh Chu Mạnh G kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 06; Quyển số 2006 ngày 18/01/2006 tại UBND xã K, huyện G, thành phố Hà Nội. Trước khi kết hôn chưa ai có vợ, có chồng. Đây là hôn nhân hợp pháp.

Căn cứ vào lời khai của chị Nguyễn Thị Ánh T, các biên bản làm việc tại địa phương đều xác nhận: Sau khi kết hôn, vợ chồng tôi chung sống với nhau tại nhà bố mẹ đẻ anh G tại Thôn C, xã K, huyện G, Hà Nội. Quá trình vợ chồng chung sống với nhau hòa thuận đến năm 2019 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Mặc dù hai bên gia đình đã khuyên bảo rất nhiều nhưng không đạt được kết quả gì. Đỉnh điểm mâu thuẫn là tháng 7 năm 2020, hai vợ chồng cãi nhau nên chị T cùng cháu L đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ tại Thôn Y, xã D, huyện G, thành phố Hà Nội sinh sống từ đó cho đến nay. Kề từ ngày đó hai vợ chồng đã sống ly thân, không gặp nhau và cũng không liên lạc với nhau. Hai vợ chồng không ai quan tâm đến ai, việc ai người đó làm. Anh G không công ăn việc làm ổn định, không quan tâm gì đến vợ con. Như vậy xác định anh chị đã ly thân từ năm tháng 7/2020 cho đến nay, mỗi người một cuộc sống, không còn quan tâm đến nhau. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân của vợ chồng chị T, anh G đã thực sự trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài. Vì vậy Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Ánh T. Cho chị Nguyễn Thị Ánh T được ly hôn với anh Chu Mạnh G.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị Ánh T và anh Chu Mạnh G có 01 con là Chu Bảo L, sinh ngày 12/02/2008.

Xét nguyện vọng xin nuôi con của chị T và điều kiện hoàn cảnh thực tế của con chung, Hội đồng xét xử nhận thấy: Cháu L hiện tại đang ăn ở, học tập ổn định với chị T. Kể từ khi ly thân cháu L vẫn ở cùng với chị T và do chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cùng với sự hỗ trợ của bố mẹ đẻ chị T tại Thôn Y, xã D, huyện G, thành phố Hà Nội. Anh G làm nghề lái xe, thường xuyên đi sớm về khuya và có khi không về nhà. Đồng thời, ý kiến của cháu L cũng có nguyện vọng ở với chị T. Để đảm bảo về ổn định sinh hoạt, phát triển về mọi mặt của con chung, Hội đồng xét xử thấy cần giao cho con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của anh G cho đến khi con chung trưởng thành, đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác.

Về tài sản chung, nhà đất ở chung: Chị T xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

Về các khoản nợ chung: Chị T xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[3] Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; điểm 1.1 khoản 1 Mục II Danh mục án phí, lệ phí Tòa án. Chị Nguyễn Thị Ánh T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Chị Nguyễn Thị Ánh T và anh Chu Mạnh G có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81; khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ: Khoản1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ: điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định về mức thu,miễn,giảm, thu, nộp,quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; điểm 1.1 khoản 1 Mục II Danh mục án phí,lệ phí Tòa án bán hành kem theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội .

Xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Ánh T. Cho chị Nguyễn Thị Ánh T ly hôn với anh Chu Mạnh G.

Về con chung: Giao con chung là Chu Bảo L, sinh ngày 12/02/2008 cho chị Nguyễn Thị Ánh T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung đủ tuổi trưởng thành, đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của anh Chu Mạnh G cho đến khi con chung trưởng thành, đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác.

Anh Chu Mạnh G có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

Về tài sản chung, nhà đất ở chung và các khoản nợ chung: Chị Nguyễn Thị Ánh T xác định không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ánh T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận chị Nguyễn Thị Ánh T đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền số AA/2020/0072581ngày 05/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, thành phố Hà Nội. Xác nhận chị Nguyễn Thị Ánh T đã nộp đủ tiền án phí.

Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Ánh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Chu Mạnh G có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

109
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung khi ly hôn số 340/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:340/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về