Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung khi ly hôn số 27/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH MINH, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 27/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 04 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bình Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 332/2021/TLST-HNGĐ ngày 19/11/2020 về “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 23 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1997; Nơi cư trú: Tổ 07B, khu vực 1, phường B, thành phố N, tỉnh Bình Định, vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Trần Đức M, sinh năm 1994; Nơi cư trú: Khóm 4, phường P, thị xã M, tỉnh Vĩnh Long, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 12/8/2020, đơn khởi kiện bổ sung ngày 22/01/2021 và các lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Nguyễn Thị T trình bày: Qua thời gian tìm hiểu nhau, bà T và ông Trần Đức M tiến đến hôn nhân, cả hai có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn được UBND phường B, thành phố N, tỉnh Bình Định cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 09/11/2015. Sau khi kết hôn do ông M không lo làm ăn, không quan tâm đến gia đình nên vợ chồng bà thường cự cãi dẫn đến mâu thuẫn và bất đồng quan điểm sống, cả hai đã ly thân từ tháng 5/2019 đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Trần Đức M.

+ Về con chung: Có 02 con chung tên Trần Nguyễn Kim T1, sinh ngày 27/5/2015 và Trần Nguyễn Kim A sinh ngày 27/11/2018, hiện đang sống cùng bà T. Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung Trần Nguyễn Kim T1 và Trần Nguyễn Kim A, không yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn Trần Đức M mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng gồm: Thông báo về việc thụ lý vụ án số 332/2020/TB-TLVA ngày 19/11/2020; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số 929/2020/TB-TA ngày 01/12/2020; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số 10/2021/TB-TA ngày 05/01/2021, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số 98/2021/TB-TA ngày 22/02/2021 nhưng ông M không cung cấp bản khai ý kiến và không đến Tòa án để trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị T.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Nguyên đơn Nguyễn Thị T và bị đơn Trần Đức M vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn Nguyễn Thị T khởi kiện xin ly hôn với bị đơn Trần Đức M có nơi cư trú tại phường P, thị xã M, tỉnh Vĩnh Long do đó Tòa án nhân dân thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long thụ lý và giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình theo thủ tục sơ thẩm được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ngày 09/4/2021, Tòa án nhân dân thị xã Bình Minh mở phiên tòa sơ thẩm lần thứ nhất, ông Trần Đức M đã được tống đạt hợp lệ: Quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập xét xử vào ngày 23/3/2021 nhưng ông M vắng mặt không rõ lý do. Ngày 12/4/2021, ông M đã được tống đạt hợp lệ: Quyết định hoãn phiên tòa số 16/2021/QĐST-HNGĐ ngày 09/4/2021 và giấy triệu tập xét xử lần thứ hai nhưng tại phiên tòa hôm nay ông M vẫn vắng mặt không rõ lý do. Do bị đơn Trần Đức M đã được Tòa án triệp tập xét xử hợp lệ hai lần mà vẫn vắng mặt không rõ lý và nguyên đơn Nguyễn Thị T có văn bản đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông M và bà T.

[2] Về nội dung khởi kiện:

[2.1] Xét về quan hệ hôn nhân:

Sau khi tổ chức lễ cưới, bà T và ông M có đăng ký kết hôn được Ủy ban nhân dân phường B, thành phố N, tỉnh Bình Định cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 09/11/2015 nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Xét quá trình chung sống của bà T và ông M: Theo lời khai của bà T, sau khi kết hôn thì vợ chồng bà thường xuyên cãi nhau do ông M không lo làm ăn, không quan tâm đến gia đình dẫn đến bất đồng quan điểm sống, cả hai đã ly thân từ tháng 5/2019 đến nay. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông M không đến Tòa án trình bày về tình trạng hôn nhân hiện nay và ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà T nên phải chịu hậu quả bất lợi theo khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự. Do giữa bà T và ông M đã không còn thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình dẫn đến tình trạng hôn nhân trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của bà T là có căn cứ phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Do đó Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận cho bà Nguyễn Thị T được ly hôn với ông Trần Đức M.

[2.2] Về nuôi con chung: Trong quá trình chung sống, bà T và ông M có 02 con chung tên Trần Nguyễn Kim T1, sinh ngày 27/5/2015 và Trần Nguyễn Kim A sinh ngày 27/11/2018, hiện đang sống cùng bà T. Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung Trần Nguyễn Kim T1 và Trần Nguyễn Kim A, không yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con, hiện bà T đang làm công nhân tại Công ty TNHH Gỗ C, thu nhập ổn định 7.500.000đồng/tháng, đủ điều kiện kinh tế để nuôi 02 con chung.

Trong quá trình giải quyết vụ án, ông M không cung cấp ý kiến đối với yêu cầu của bà T về việc nuôi con chung nên phải chịu hậu quả bất lợi theo khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự. Để tiếp tục đảm bảo điều kiện phát triển về thể chất và tinh thần cho cháu Kim T1 và Kim A, Hội đồng xét xử thống nhất giao cho bà T được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung Trần Nguyễn Kim T1, sinh ngày 27/5/2015 và Trần Nguyễn Kim A sinh ngày 27/11/2018 cho đến khi cháu Kim T1 và Kim A đủ 18 tuổi.

Ông Trần Đức M có quyền, nghĩa vụ thăm nom 02 con chung Trần Nguyễn Kim T1, sinh ngày 27/5/2015 và Trần Nguyễn Kim A sinh ngày 27/11/2018 mà không ai được quyền cản trở theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân gia đình.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do bà T chưa yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con chung Trần Nguyễn Kim T1 và Trần Nguyễn Kim A nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết, ông M vắng mặt không có ý kiến bằng văn bản nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết. Bà Nguyễn Thị T và ông Trần Đức M được quyền khởi kiện một vụ kiện khác khi có yêu cầu giải quyết tài sản chung và nợ chung.

[3] Về án phí: Bà T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn theo quy định khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Áp dụng Điều 19, Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị T.

1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T được ly hôn với ông Trần Đức M.

2. Về nuôi con chung: Giao cho bà Nguyễn Thị T được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung Trần Nguyễn Kim T1, sinh ngày 27/5/2015 và Trần Nguyễn Kim A sinh ngày 27/11/2018 cho đến khi cháu Kim T1 và Kim A đủ 18 tuổi.

Ông Trần Đức M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung Trần Nguyễn Kim T1, sinh ngày 27/5/2015 và Trần Nguyễn Kim A sinh ngày 27/11/2018 mà không ai được quyền cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Nguyễn Thị T chưa yêu cầu ông Trần Đức M cấp dưỡng nuôi con chung Trần Nguyễn Kim T1 và Trần Nguyễn Kim A nên Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không có yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết.

Bà Nguyễn Thị T và ông Trần Đức M được quyền khởi kiện một vụ kiện khác khi có yêu cầu giải quyết tài sản chung và nợ chung.

5. Về án phí:

Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về yêu cầu xin ly hôn. Được khấu trừ vào số tiền nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0010547 ngày 19/11/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Bình Minh. Bà Nguyễn Thị T đã nộp xong.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai, bà Nguyễn Thị T và ông Trần Đức M được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung khi ly hôn số 27/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:27/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bình Minh - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về