TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 89/2024/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Trong ngày 28 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 615/2023/TLST-HNGĐ, ngày 22/12/2023 về việc: “Xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 23/02/2024 và quyết định hoãn phiên tòa số: 59/2024/QĐST-HNGĐ ngày 12/3/2024, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Chị Trang Thị Thùy D, sinh năm 1987 (vắng mặt – có đơn xin xét xử vắng mặt) HKTT: Số 392/26/1, Trần Khánh Dư, phường A, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang. Số điện thoại: 0962.288xxx Tạm trú: Số 45/9, khu phố Bình Quới A, phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
* Bị đơn: Anh Ngô Văn Q, sinh năm 1982 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp SH, xã AB, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Trang Thị Thùy D trình bày: Chị Trang Thị Thùy D với anh Ngô Văn Q do tự tìm hiểu nên tiến tới chung sống với nhau từ năm 2007, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (sau đây gọi tắt là UBND) xã AB, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang vào ngày 06/6/2013. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2022 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, vợ chồng thường xuyên cự cãi, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nhận thấy, cuộc sống hôn nhân không thể hàn gắn và kéo dài nên chị D yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Ngô Văn Q. Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Ngô Quốc A, sinh ngày 05/12/2008 (hiện đang sống với mẹ). Sau khi ly hôn, chị D yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Q cấp dưỡng. Về quan hệ tài sản: Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
Đối với bị đơn anh Ngô Văn Q: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Ngô Văn Q nhưng anh Q đã vắng mặt không lý do nên không có lời khai của anh Q.
Nguyện vọng của con chung: Tại biên bản ghi nhận ý kiến của người chưa thành niên ngày 26/01/2024 cháu Ngô Quốc A, sinh ngày 05/12/2008 có nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ.
Kết quả xác minh tình trạng hôn nhân của chị D, anh Q tại biên bản xác minh ngày 16/01/2024 của UBND xã AB thể hiện: “…Chị D và anh Q có đăng ký kết hôn, có 01 con chung cháu Ngô Quốc A, sinh ngày 05/12/2008. Hai vợ chồng đã ly thân, nguyên nhân mâu thuẫn không rõ…”.
Tại phiên tòa: Chị Trang Thị Thùy D vắng mặt – có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn anh Ngô Văn Q vắng mặt không có lý do.
Đại diện Viện kiểm sát Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
- Về tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng: Về cơ bản vụ án đã được tiến hành đúng theo trình tự pháp luật quy định, đã xác minh tại địa phương về tình trạng hôn nhân, có đủ cơ sở đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
- Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 8, Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về quan hệ hôn nhân: Chị D được ly hôn với anh Q. Về con chung: Giao con chung tên Ngô Quốc A, sinh ngày 05/12/2008 cho chị D được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét. Về án phí: Chị D yêu cầu ly hôn nên phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (sau đây gọi tắt là HĐXX) nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con; Bị đơn anh Ngô Văn Q cư trú tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn. Tại phiên tòa, anh Q vẫn vắng mặt không có lý do là từ bỏ quyền và không thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70 và Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự; Chị Trang Thị Thùy D vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy, HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trang Thị Thùy D chung sống với anh Ngô Văn Q có đăng ký kết hôn tại UBND xã AB, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang ngày 06/6/2013. Do vậy, căn cứ vào Điều 8 và Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì đây là hôn nhân hợp pháp nên phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Kết quả xác minh tình trạng hôn nhân của chị D, anh Q phù hợp với lời khai của chị D về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn, cụ thể: Thời gian đầu vợ chồng chị D và anh Q chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2022 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, vợ chồng thường xuyên cự cãi, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Mâu thuẫn kéo dài mặc dù chị D, anh Q đã cho nhau nhiều cơ hội sửa đổi nhưng vẫn không đạt kết quả, vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ năm 2022 cho đến nay, trong thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm nhau.
Trong suốt quá trình giải quyết vụ án anh Q không đến Tòa để tham dự các phiên hòa giải cũng như xét xử, không gửi tờ tự khai thể hiện ý kiến của mình là mặc nhiên thừa nhận có sự mâu thuẫn giữa vợ chồng và không có ý muốn hàn gắn. Do đó chị D đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn là có cơ sở.
Căn cứ vào quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, HĐXX xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị D và anh Q đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D đối với anh Q.
[2.2] Về con chung: Qua chứng cứ chị Trang Thị Thùy D cung cấp cũng như kết quả xác minh tình trạng hôn nhân thì chị Trang Thị Thùy D và anh Ngô Văn Q có 01 con chung tên Ngô Quốc A, sinh ngày 05/12/2008 hiện đang sống với mẹ. Nhận thấy cháu A có nguyện vọng được sống với mẹ, chị D đủ điều kiện trực tiếp nuôi con chung và cũng có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cháu A. Trong quá trình giải quyết vụ án anh Q không thể hiện ý kiến đối với yêu cầu của chị D về con chung. Do vậy, HĐXX áp dụng các Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia đình, giao con chung tên Ngô Quốc A, sinh ngày 05/12/2008 cho chị Trang Thị Thùy D được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu A thành niên (đủ 18 tuổi), tự lao động được là phù hợp và đảm bảo được các điều kiện tốt nhất cho sự phát triển về thể chất, tinh thần, việc học tập, môi trường sống của cháu; Chị D phải tạo điều kiện cho anh Q được quyền đến thăm nom, chăm sóc các con chung, không ai được cản trở; Khi cần thiết anh Q có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con theo quy định pháp luật.
[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị D không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.
[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị D trình bày không có nên HĐXX không xem xét.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị D là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[4] Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị về giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định nêu trên của Tòa án.
[5] Các đương sự được kháng cáo bản án theo quy định của Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 70, Điều 72, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 8, Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH.14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trang Thị Thùy D.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trang Thị Thùy D được ly hôn với anh Ngô Văn Q.
2. Về quan hệ con chung: Chị Trang Thị Thùy D được tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Ngô Quốc A, sinh ngày 05/12/2008; Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được quyền ngăn cản. Người không trực tiếp nuôi con chung nếu lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các đương sự có thể yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung.
3. Về cấp dưỡng nuôi con: Tạm miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Ngô Văn Q do chị Trang Thị Thùy D không yêu cầu. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các đương sự có thể yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung hoặc thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung.
4. Về tài sản chung và nợ chung:
- Về tài sản chung: Quá trình giải quyết vụ án chị Trang Thị Thùy D trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.
- Về nợ chung: Quá trình giải quyết vụ án chị Trang Thị Thùy D trình bày không có nên không đặt ra giải quyết. Tuy nhiên, sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì chị Trang Thị Thùy D và anh Ngô Văn Q phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
5. Về án phí sơ thẩm: Chị Trang Thị Thùy D phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0013502 ngày 22/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Như vậy, chị D đã thực hiện xong nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm. Anh Ngô Văn Q không phải chịu án phí.
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án theo quy định của pháp luật để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng ch ế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con số 89/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 89/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về