TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 83/2024/HNGĐ-ST NGÀY 22/03/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Trong ngày 22 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện T, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 546/2023/TLST-HNGĐ, ngày 20/11/2023 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 19/02/2024 và quyết định hoãn phiên tòa số: 56/2024/QĐST-HNGĐ ngày 05/03/2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Phan Thị D, sinh năm 1982 (Vắng mặt – có đơn xin xét xử vắng mặt) HKTT: Khóm Tân Đông, thị trấn R, huyện T, tỉnh An Giang. Địa chỉ tạm trú: Ấp Tây Bình, xã T, huyện T, tỉnh An Giang. Số điện thoại: 03559734xxx
2. Bị đơn: Anh Đào Trọng Th, sinh năm 1982 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp T, thị trấn R, huyện T, tỉnh An Giang.
Số điện thoại: 09324438xx
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Phan Thị D trình bày: Chị Phan Thị D với anh Đào Trọng Th tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2005 và có đăng kết hôn tại Ủy ban nhân dân (sau đây gọi tắt là UBND) thị trấn R, huyện T, tỉnh An Giang ngày 06/7/2006. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc và có 01 con chung tên Trịnh Gia A, sinh ngày 28/12/2015. Nhưng đến đầu năm 2022, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh Th không lo cho kinh tế gia đình, không quan tâm vợ con, thường xuyên có hành vi bạo lực gia đình bằng lời nói với vợ. Chị D đã cho anh Th cơ hội rất nhiều lần nhưng anh vẫn không thay đổi. Vợ chồng đã ly thân từ đầu năm 2022 cho đến nay. Nhận thấy, cuộc sống hôn nhân không thể hàn gắn và kéo dài nên chị D yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đào Trọng Th. Về quan hệ con chung: Có 01 con chung tên Đào Thị Huyền Trân, sinh ngày 30/9/2006 (đang sống với cha). Sau khi ly hôn, chị D đồng ý giao con chung cho anh Th nuôi dưỡng, chị sẽ không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
Đối với bị đơn anh Đào Trọng Th: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Đào Trọng Th nhưng anh Th đã vắng mặt không lý do nên không có lời khai của anh Th.
Nguyện vọng của con chung: Tại biên bản ghi nhận ý kiến của người chưa thành niên cháu Đào Thị Huyền Trân, sinh ngày 30/9/2006 có nguyện vọng được tiếp tục sống với cha.
Kết quả xác minh tình trạng hôn nhân của chị D, anh Th tại biên bản lấy lời khai ngày 20/11/2023 của người làm chứng chị Nguyễn Thị Mỹ Tiền (em chồng và cũng là hàng xóm chị D) thể hiện: “…Nghe nói anh Th và chị D trước đây do tự tìm hiểu mới tiến tới chung sống, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn. Trước đây năm 2016 – 2018 tôi và chồng làm ở Bình Dương có ở cùng nhà trọ với vợ chồng chị D, anh Th. Tôi thấy chị D và anh Th hay cự cãi, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Cự cãi chủ yếu về vấn đề kinh tế, anh Th không lo kinh tế gia đình mà còn cần nhần vợ suốt ngày…”.
Tại phiên tòa: Chị Phan Thị D vắng mặt – có đơn xin xét xử vắng mặt;
bị đơn anh Đào Trọng Th vắng mặt không có lý do.
Đại diện Viện kiểm sát Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
- Về tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng: Về cơ bản vụ án đã được tiến hành đúng theo trình tự pháp luật quy định, đã xác minh tại địa phương về tình trạng hôn nhân, có đủ cơ sở đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
- Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 8, Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về quan hệ hôn nhân: Chị D được ly hôn với anh Th. Về con chung: Giao con chung tên Đào Thị Huyền Trân, sinh ngày 30/9/2006 cho anh Th được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, chị D không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét. Về án phí: Chị D yêu cầu ly hôn nên phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử (sau đây gọi tắt là HĐXX) nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con; Bị đơn anh Đào Trọng Th cư trú tại huyện T, tỉnh An Giang. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T. Tại phiên tòa hôm nay anh Th vắng mặt không có lý do là từ bỏ quyền và không thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70 và Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự; Chị Phan Thị D vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy, Tòa án căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị D tự nguyện chung sống với anh Đào Trọng Th và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn R, huyện T, tỉnh An Giang. Do vậy, căn cứ vào Điều 8 và Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì đây là hôn nhân hợp pháp nên phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Sau khi kết hôn, chị D và anh Th có một khoảng thời gian chung sống hạnh phúc thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Th không lo cho kinh tế gia đình và có hành vi bạo lực gia đình với vợ, chị D đã cho anh Th nhiều cơ hội sửa đổi nhưng vẫn không đạt kết quả, anh chị quyết định sống ly thân từ đầu năm 2022 cho đến nay, trong thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm nhau.
Trong suốt quá trình giải quyết vụ án anh Th có nhận thông báo thụ lý vụ án, các văn bản tố tụng khác của Tòa án nhưng không đến Tòa để tham dự các phiên hòa giải cũng như xét xử, không gửi tờ tự khai thể hiện ý kiến của mình là mặc nhiên thừa nhận có sự mâu thuẫn giữa vợ chồng và không có ý muốn hàn gắn. Do đó chị D đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn là có cơ sở.
Căn cứ vào quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, HĐXX xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị D và anh Th đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D đối với anh Th.
[2.2] Về con chung: Qua chứng cứ chị D cung cấp cũng như kết quả xác minh tình trạng hôn nhân thể hiện chị Phan Thị D và anh Đào Trọng Th có 01 con chung tên Đào Thị Huyền Trân, sinh ngày 30/9/2006 hiện đang sống với cha. Tại biên bản ghi nhận ý kiến của người chưa thành niên cháu Đào Thị Huyền Trân có nguyện vọng được tiếp tục sống với cha. Bên cạnh đó chị D cho rằng anh Th hiện đang chăm sóc con rất tốt nên chị yêu cầu cho giao cháu Trân cho anh Th được tiếp tục nuôi dưỡng. Trong quá trình giải quyết vụ án anh Th không thể hiện ý kiến đối với yêu cầu của chị D về con chung. Do vậy, HĐXX áp dụng các Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia đình, giao con chung tên Đào Thị Huyền Trân, sinh ngày 30/9/2006 cho anh Đào Trọng Th được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Trân thành niên (đủ 18 tuổi), tự lao động được là phù hợp và đảm bảo được các điều kiện tốt nhất cho sự phát triển về thể chất, tinh thần, việc học tập, môi trường sống của cháu; Anh Th phải tạo điều kiện cho chị D được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở; Khi cần thiết chị D có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con theo quy định pháp luật.
[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị D, anh Th không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.
[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị D trình bày không có nên HĐXX không xem xét.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị D là nguyên đơn nên phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[4] Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị về giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định nêu trên của Tòa án.
[5] Các đương sự được kháng cáo bản án theo quy định của Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Điều 8, Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH.14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Th.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị D.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị D được ly hôn với anh Đào Trọng 2. Về quan hệ con chung: Anh Đào Trọng Th được tiếp tục nuôi con chung tên Đào Thị Huyền Trân, sinh ngày 30/9/2006; Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được quyền ngăn cản. Người không trực tiếp nuôi con chung nếu lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các đương sự có thể yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung.
3. Về cấp dưỡng nuôi con: Tạm miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho chị Phan Thị D. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các đương sự có thể yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung hoặc thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung.
4. Về tài sản chung và nợ chung:
- Về tài sản chung: Quá trình giải quyết vụ án chị Phan Thị D trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.
- Về nợ chung: Quá trình giải quyết vụ án chị Phan Thị D trình bày không có nên không đặt ra giải quyết. Tuy nhiên, sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì chị Phan Thị D và anh Đào Trọng Th phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
5. Về án phí sơ thẩm: Chị Phan Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0013338 ngày 20/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh An Giang. Như vậy, chị D đã nộp xong. Anh Đào Trọng Th không phải chịu án phí.
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án theo quy định của pháp luật để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con số 83/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 83/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về