TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 01/2024/HNGĐ-ST NGÀY 02/01/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Trong ngày 02 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 466/2023/TLST-HNGĐ ngày 17/10/2023, về việc: “Xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 195/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 29/11/2023 và quyết định hoãn phiên tòa số: 155/2023/QĐST-HNGĐ ngày 18/12/2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tuyết Nh, sinh năm 1985 (có mặt) Địa chỉ: Ấp P, xã Đ, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Số điện thoại: 0936423X
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Trọng N, sinh năm 1979 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp V, xã V, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Số điện thoại: 0369X007
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết Nh trình bày:
Chị Nguyễn Thị Tuyết Nh với anh Nguyễn Trọng N do mai mối mới tiến tới chung sống từ năm 2006, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (sau đây gọi tắt là UBND) xã Đ, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang ngày 04/5/2007. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc và có 01 con chung tên Nguyễn Trọng D, sinh ngày 25/4/2007. Đến đầu tháng 8/2008, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh N không quan tâm vợ con, ghen tuông vô cớ và có những hành vi bạo lực gia đình (uy hiếp xâm phạm tính mạng chị Nh bằng thuốc trừ sâu, dao; không cho chị Nh ngủ) nhiều lần. Chị Nh đã cho anh N cơ hội rất nhiều lần nhưng anh N vẫn không thay đổi. Cũng trong tháng 8/2008 Không chịu đựng được nữa nên chị Nh đã dẫn cháu D bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống, vợ chồng chị đã ly thân từ đó cho đến nay. Nhận thấy, cuộc sống hôn nhân không thể hàn gắn và kéo dài nên chị Nguyễn Thị Tuyết Nh yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Trọng N. Về quan hệ con chung: Sau khi ly hôn, chị Nh yêu cầu được nuôi con chung tên Nguyễn Trọng D, sinh ngày 25/4/2007, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Không có; Về nợ chung: Không có.
Nguyện vọng của con chung: Tại biên bản Ghi nhận ý kiến của người chưa thành niên ngày 29/11/2023 cháu Nguyễn Trọng D có nguyện vọng được sống với mẹ.
Đối với bị đơn anh Nguyễn Trọng N: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Nguyễn Trọng N nhưng trong suốt quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay anh N đã vắng mặt không lý do nên không có lời khai của anh N.
Kết quả xác minh tình trạng hôn nhân của chị Nh, anh N tại biên bản lấy lời khai ngày 18/10/2023 của người làm chứng anh Nguyễn Văn Tr thể hiện: Chị Nh là chị ruột của anh, anh N là chồng chị Nh và là anh rể của anh. Chị Nh và anh N do mai mối mới tiến tới chung sống từ năm 2006, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn. Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Trọng D, sinh ngày 25/4/2007. Chỉ sau vài tháng chung sống thì chị Nh và anh N đã không hạnh phúc, họ thường xuyên cự cãi, anh N hay ghen tuông thái quá. Năm 2008 chị Nh dẫn con về nhà cha mẹ ruột sống đến nay, chỉ thấy anh N thăm con vài lần.
Tại phiên tòa: Chị Nguyễn Thị Tuyết Nh có mặt; bị đơn anh Nguyễn Trọng N vắng mặt không có lý do.
Đại diện Viện kiểm sát Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
- Về tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng: Về cơ bản vụ án đã được tiến hành đúng theo trình tự pháp luật quy định, đã xác minh tại địa phương về tìn h trạng hôn nhân, có đủ cơ sở đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
- Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 8, Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. V ề quan hệ hôn nhân: Chị Nh được ly hôn với anh N. Về con chung: Giao Nguyễn Trọng D, sinh ngày 25/4/2007 cho chị Nh được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, anh N không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Nh không yêu cầu. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét. Về án phí: Chị Nh yêu cầu ly hôn nên phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử (sau đây gọi tắt là HĐXX) nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con; Bị đơn anh Nguyễn Trọng N cư trú tại ấp V, xã V, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Theo quy định tại Điều 28, Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn. Tại phiên tòa lần thứ nhất anh Nguyễn Trọng N vắng mặt nên HĐXX đã hoãn phiên tòa và tiếp tục tống đạt Quyết định hoãn phiên tòa cho anh N. Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay anh N vẫn vắng mặt không có lý do là từ bỏ quyền và không thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70 và Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự; Do vậy, HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Tuyết Nh chung sống với anh Nguyễn Trọng N có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang ngày 04/5/2007. Do vậy, căn cứ vào Điều 8 và Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì đây là hôn nhân hợp pháp nên phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Sau khi kết hôn, chị Nh và anh N có một khoảng thời gian chung sống hạnh phúc, đến năm 2008 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh N không quan tâm vợ con, hay ghen tuông vô cớ, vợ chồng thường xuyên cự cãi, anh N nhiều lần có hành vi bạo lực gia đình với chị Nh, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Mâu thuẫn kéo dài mặc dù chị Nh đã cho anh N nhiều cơ hội sửa đổi nhưng vẫn không đạt kết quả. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án anh N có nhận thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng khác của Tòa án nhưng không đến Tòa để tham dự các phiên hòa giải cũng như xét xử, không gửi tờ tự khai thể hiện ý kiến của mình là mặc nhiên thừa nhận có sự mâu thuẫn giữa vợ chồng và không có ý muốn hàn gắn. Do đó chị Nh đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn là có cơ sở.
Căn cứ vào quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, HĐXX xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị Nh và anh N đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nh đối với anh N.
[2.2] Về con chung: Qua chứng cứ chị Nh cung cấp thì chị Nguyễn Thị Tuyết Nh và anh Nguyễn Trọng N có một (01) con chung tên Nguyễn Trọng D, sinh ngày 25/4/2007 (hiện đang sống với mẹ). Quá trình giải quyết vụ án cháu D có nguyện vọng sống với mẹ, bản thân chị Nh đủ điều kiện trực tiếp nuôi con chung và cũng có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cháu D. Trong quá trình giải quyết vụ án anh N không thể hiện ý kiến đối với yêu cầu của chị Nh về con chung. Do vậy, HĐXX áp dụng các Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia đình, giao con chung tên Nguyễn Trọng D, sinh ngày 25/4/2007 cho chị Nguyễn Thị Tuyết Nh được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu D thành niên (đủ 18 tuổi), tự lao động được là phù hợp và đảm bảo được các điều kiện tốt nhất cho sự phát triển về thể chất, tinh thần, việc học tập, môi trường sống của cháu; Chị Nh phải tạo điều kiện cho anh N được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở; Khi cần thiết anh N có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con theo quy định pháp luật.
[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nh không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.
[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nh trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nh là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[4] Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị về giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định nêu trên của Tòa án.
[5] Các đương sự được kháng cáo bản án theo quy định của Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 8, Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Tuyết Nh.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Tuyết Nh được ly hôn với anh Nguyễn Trọng N.
Giấy chứng nhận kết hôn số 30 ngày 04/5/2007 của Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.
2. Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị Tuyết Nh được tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Trọng D, sinh ngày 25/4/2007; Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được quyền ngăn cản. Người không trực tiếp nuôi con chung nếu lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các đương sự có thể yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung.
3. Về cấp dưỡng nuôi con: Tạm miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Nguyễn Trọng N do chị Nguyễn Thị Tuyết Nh không yêu cầu. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các đương sự có thể yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung hoặc thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung.
4. Về tài sản chung và nợ chung:
- Về tài sản chung: Quá trình giải quyết vụ án chị Nguyễn Thị Tuyết Nh trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.
- Về nợ chung: Quá trình giải quyết vụ án chị Nguyễn Thị Tuyết Nh trình bày không có nên không đặt ra giải quyết. Tuy nhiên, sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì chị Nguyễn Thị Tuyết Nh và anh Nguyễn Trọng N phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
5. Về án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Tuyết Nh phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0012147 ngày 16/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Như vậy, chị Nguyễn Thị Tuyết Nh đã thực hiện xong nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm. Anh Nguyễn Trọng N không phải chịu án phí.
Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết Nh có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Bị đơn anh Nguyễn Trọng N được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại trụ sở UBND xã (phường, thị trấn) nơi anh Nguyễn Trọng N cư trú để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con số 01/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 01/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 02/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về