Bản án về tranh chấp ly hôn số 96/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM BÌNH, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 96/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/08/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 05 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Bình tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân thụ lý số: 221/2022/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 102/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 82/2022/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Ngọc N, sinh năm 1981 (Vắng mặt) Nơi cư trú: ấp ĐT, xã LM, huyện TB, tỉnh Vĩnh Long.

Chổ ở hiện nay: tổ 4, ấp 3B, xã MH, huyện CT, tỉnh Bình Phước.

* Bị đơn: Anh Hồ Văn B, sinh năm 1981 (Vắng mặt) Nơi cư trú: ấp ĐT, xã LM, huyện TB, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 18 tháng 4 năm 2022 nguyên đơn chị Huỳnh Thị Ngọc D trình bày:

Vào năm 2003, chị N và anh B kết hôn trên cơ sở quen biết, được sự đồng ý của gia đình chị N và anh B có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn ngày 23/7/2007 tại Ủy ban nhân dân xã AP, huyện BL, tỉnh Bình Phước. Thời gian vợ chồng hạnh phúc được khoảng 18 năm. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng ý kiến, thường xuyên cự cải. Năm 2021 vợ chồng sống ly thân cho đến nay không trở về đoàn tụ. Sau thời gian sống ly thân, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung sống không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị N yêu cầu được ly hôn với anh B. Về con chung:

vợ chồng có 03 con chung tên Hồ H, sinh ngày 05/02/2008 và Hồ Huỳnh Thị Ngọc D, sinh ngày 17/12/2010, hiện đang sống với anh B. Chị N yêu cầu nuôi 02 con chung là cháu H, cháu D và yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 745.000đồng/tháng/01 con đến khi 02 cháu tròn 18 tuổi. Riêng cháu Hồ Văn Khắc D1, sinh ngày 03/3/2003 đã trưởng thành. Về tài sản chung và nợ chung: Chị N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Chị Huỳnh Thị Ngọc N có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt.

Bị đơn anh Hồ Văn B đã được tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng đều vắng mặt tại các phiên họp, phiên hòa giải, không giao nộp văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị N cũng như theo yêu cầu của Tòa án. Anh B đã được Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa. Tòa án nhận định như sau:

[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện, lời trình bày của chị Huỳnh Thị Ngọc N quan hệ pháp luật tranh chấp về ly hôn và nuôi con quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tam Bình quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Anh Hồ Văn B đã được Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ lần thứ hai vắng mặt không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh B. Chị Huỳnh Thị Ngọc N có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị N theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về hôn nhân: Chị N và anh B cưới nhau có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Xuất phát từ việc vợ chồng bất đồng ý kiến. Anh chị có thời gian sống ly thân từ năm 2021 đến nay không trở về đoàn tụ. Chị N xác định không còn tình cảm vợ chồng, không muốn tiếp tục chung sống với anh B. Như vậy cho thấy đời sống chung giữa chị N và anh B không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án giải quyết cho ly hôn giữa chị N và anh B.

[4]. Về con chung: Chị N và anh B có 03 con chung tên Hồ H, sinh ngày 05/02/2008 và Hồ Huỳnh Thị Ngọc D, sinh ngày 17/12/2010, hiện đang sống với anh B. Riêng cháu Hồ Văn Khắc D, sinh ngày 03/3/2003 đã trưởng thành.

Xét yêu cầu nuôi con chung của chị N là có cơ sở chấp nhận một phần. Mặc dù cháu D và cháu H từ lúc cha mẹ ly thân cháu D và cháu H sống với anh B nhưng cháu D có bản tự khai muốn sống chung với mẹ là chị N, còn cháu H có bản tự khai sống chung với cha là anh B, nhằm tránh làm xáo trộn cuộc sống, tâm sinh lý và theo nguyện vọng của cháu D và cháu H nên Hội đồng xét xử giao cháu H cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng và cháu D cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại các điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Riêng cháu Hồ Văn Khắc D1, sinh ngày 03/3/2003 đã trưởng thành.

Chị N yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 745.000đồng/con cho đến khi cháu D tròn 18 tuổi nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của chị N. Thời hạn cấp dưỡng được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Chị N, anh B có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh B vắng mặt tại phiên tòa và cũng không có văn bản thể hiện việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]. Về tài sản chung và nợ chung: Chị N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 6, khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Cụ thể chị N phải chịu án phí ly hôn số tiền 300.000đồng án phí và được khấu trừ vào trong số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Anh B phải chịu 300.000đồng tiền án phí đối với nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng Dân sự; Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 6, khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, kèm theo danh mục án phí, lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn chị Huỳnh Thị Ngọc N. Cho chị Huỳnh Thị Ngọc N được ly hôn với anh Hồ Văn B.

2. Về con chung:

Tiếp tục giao con chung Hồ H, sinh ngày 05/02/2008 cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng.

Tiếp tục giao con chung Hồ Huỳnh Thị Ngọc D, sinh ngày 17/12/2010 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng.

Riêng cháu Hồ Văn Khắc D1, sinh ngày 03/3/2003 đã trưởng thành.

Buộc anh B cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 745.000đồng/con cho đến khi cháu Huỳnh tròn 18 tuổi. Thời hạn cấp dưỡng được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Chị N, anh B không trực tiếp nuôi con có quyền đến thăm con chung không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh B vắng mặt tại phiên tòa và cũng không có văn bản thể hiện việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung: Chị N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc chị N nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự; khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu số No 0010699 ngày 19/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Bình nên chị N không phải nộp thêm.

Anh B phải chịu 300.000 đồng tiền án phí đối với nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

6. Vụ án được xét xử công khai. Chị N và anh B vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ, để chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án đến Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 96/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:96/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Bình - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về