Bản án về tranh chấp ly hôn số 954/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 954/2023/HNGĐ-ST NGÀY 26/10/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 10 năm 2023, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 392/2023/TLST-HNGĐ ngày 12/6/2023 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 548/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 06/9/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 461/2023/QĐST-HNGĐ ngày 29/9/2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1980; Địa chỉ: G P, Phường D, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh. (Bà T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

2. Bị đơn: Ông Ong Văn S, sinh năm: 1987; Địa chỉ: C9/9KN P, xã B, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Ông S vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 19/9/2022, đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện ngày 01/11/2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án - Nguyên đơn bà Nguyễn Thị T trình bày:

Bà và ông Ong Văn S chung sống với nhau từ năm 2012, do tự tìm hiểu, có tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân Phường D, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 29/5/2012. Cuộc sống vợ chồng cũng bình thường, không có gì lớn xảy ra nhưng đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do trong cuộc sống vợ chồng không còn tiếng nói chung, vợ chồng hay cãi nhau. Ngoài ra, ông S không chăm lo cho hạnh phúc gia đình mà còn hay nhậu nhẹt. Vì vậy, từ năm 2022 cho đến nay thì vợ chồng sống ly thân, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông Ong Văn S.

Về con chung, bà và ông S chung sống có một con chung tên Ong Mỹ L, sinh ngày 08/7/2014, hiện con đang ở với bà. Khi ly hôn, nguyện vọng của bà muốn được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con cùng bà.

Về tài sản chung, bà xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung, bà xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã tiến hành tống đạt hợp lệ cho ông Ong Văn S gồm: thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng ông Ong Văn S vẫn không đến tham gia tố tụng tại Tòa án và cũng không thể hiện ý kiến của mình bằng bất cứ văn bản nào.

- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày, tranh luận của các bên đương sự thì xét thấy thời hạn chuẩn bị xét xử đảm bảo theo quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Nguyên đơn bà Nguyễn Thị T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bị đơn ông Ong Văn S. Theo kết quả trả lời xác minh của Công an xã B, huyện B thì ông S hiện đang cư trú tại C9/9KN P, xã B, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[3] Về sự vắng mặt của các đương sự:

- Nguyên đơn bà Nguyễn Thị T có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt, do đó Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà T theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với bị đơn ông Ong Văn S, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự cho ông Ong Văn S nhưng ông S vẫn không đến tham gia tố tụng tại Tòa án nên Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông s theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về hôn nhân: Theo giấy chứng nhận kết hôn số 121 do Ủy ban nhân dân Phường D, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 29/5/2012 có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông S là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 9, Điều 11 và Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

[5] Theo trình bày của bà T xác định giữa bà và ông S phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, vợ chồng hay cãi nhau, dẫn đến vợ chồng sống ly thân. Vì vậy, bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà và ông S. Còn ông S vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án, không thể hiện ý kiến, yêu cầu về các yêu cầu khởi kiện của bà T.

[6] Hội đồng xét xử xét thấy, trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án thì ông S vắng mặt, như vậy trên thực tế mâu thuẫn giũa bà T và ông S có diễn ra. Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy mục đích hôn nhân giữa bà T và ông S đã không đạt được, đời sống chung giữa hai vợ chồng không thể tiếp tục kéo dài. Do đó, bà T yêu cầu ly hôn đối với ông S là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về con chung: Bà T xác nhận giữa bà và ông S chung sống có một con chung tên Ong Mỹ L, sinh ngày 08/7/2014. Khi ly hôn, nguyện vọng của bà T được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con cùng chị.

Còn ông S vắng mặt không thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu về con chung của bà T, do đó Hội đồng xét xử căn cứ ý kiến của bà T để xem xét.

[7.1] Về quyền nuôi con khi ly hôn:

Căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định:

“2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con” 3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, trừ trưng hp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con” Tại biên bản ghi nhận ý kiến ngày 06/9/2023 cháu Ong Mỹ L có nguyện vọng được ở với bà T.

Hội đồng xét xử xét thấy như sau: Hội đồng xét xử xem xét đến khả năng của các đương sự về việc đảm bảo cuộc sống ổn định, tinh thần, sự phát triển tốt nhất cho cháu L nên căn cứ khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao cháu Ong Mỹ L cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng là thỏa đáng.

[7.2] Về cấp dưỡng nuôi con: Do bà T không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi cháu L khi ly hôn. Tuy nhiên, do đây là quyền lợi của trẻ do đó Hội đồng xét xử xét tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông S.

[8] Về tài sản chung: Bà T xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn ông S vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của ông về tài sản chung giữa ông và bà T. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận vấn đề tài sản chung theo yêu cầu của bà T, trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

[9] Về nợ chung: Bà T xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn ông s vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của ông về nợ chung giữa ông và bà T. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận vấn đề nợ chung theo yêu cầu của bà T, trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

[10] Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn bà Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.

[11] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh về việc giải quyết vụ án là phù hợp nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 179, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 69, Điều 71, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T đối với bị đơn ông Ong Văn S về việc tranh chấp ly hôn.

1.1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T được ly hôn với ông Ong Văn S. Quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị T và ông Ong Văn S chấm dứt cũng như giấy chứng nhận kết hôn số 121 do Ủy ban nhân dân Phường D, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 29/5/2012 không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

1.2. Về con chung: Bà Nguyễn Thị T xác nhận giữa bà Nguyễn Thị T và ông Ong Văn S có một con chung tên Ong Mỹ L, sinh ngày 08/7/2014. Hiện cháu Ong Mỹ L đang sống cùng bà Nguyễn Thị T.

Giao con chung tên Ong Mỹ L, sinh ngày 08/7/2014 cho bà Nguyễn Thị T tiếp tục nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông Ong Văn S.

Ông Ong Văn S có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền cản trở, vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con sau này theo quy định tại Điều 83, Điều 84 và Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến trng nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó theo quy định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

1.3. Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị T xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Tòa án không đặt ra giải quyết; trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

1.4. Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị T xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Tòa án không đặt ra giải quyết; trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

2. Về án phí: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) mà bà T đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0017697 ngày 28/11/2022 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà T đã nộp đầy đủ án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 954/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:954/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về