Bản án về tranh chấp ly hôn số 94/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 94/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 04 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 743/2022/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2022 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 150/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Võ Đan Th, sinh năm 1978.

Địa chỉ: Tổ 2, ấp C, xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Ánh Nh, sinh năm 1969.

Địa chỉ: Số 7/15A, đường CMT8, phường B, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

(Chị T, anh Nhật có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện 19/02/2021, bản tự khai và tại buổi hòa giải nguyên đơn chị Võ Đan Th trình bày:

Chị và anh Nguyễn Ánh Nh tự tìm hiểu nhau và tự nguyện kết hôn với nhau;

có đăng ký kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 16/7/2018.

Sau khi đăng ký kết hôn xong, chị và anh Nhật không sống chung với nhau ngày nào. Chị và anh Nhật thường liên lạc hỏi han nhau bằng điện thoại. Sau một thời gian ngắn thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân, mâu thuẫn phát sinh chủ yếu do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung. Dù hai bên đã cố gắng hòa giải đoàn tụ nhưng vẫn không thể đoàn tụ để xây dựng gia đình hạnh phúc. Nay chị không còn tình cảm với anh Nhật nên đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nhật.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Theo bản tự khai và tại buổi hòa giải anh Nguyễn Ánh N trình bày: Về quan hệ hôn nhân như chị T trình bày là đúng. Mặc dù anh và chị T là vợ chồng nhưng không sống chung với nhau ngày nào, anh cũng không biết cụ thể nhà chị T chỗ nào. Nay chị T yêu cầu ly hôn thì anh không đồng ý.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai:

Về việc tuân thủ quy định của thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của các đương sự là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Võ Đan T đối với bị đơn anh Nguyễn Ánh N về việc ly hôn, về quan hệ hôn nhân: Chị T được ly hôn với anh Nhật, về con chung: Không có, về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự khai không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật, tư cách đương sự:

Nguyên đơn chị Võ Đan Th khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Ánh N căn cứ Điều 28 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 xác định quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là ly hôn. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định chị T là nguyên đơn, anh Nh là bị đơn trong vụ án.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Ánh N cung cấp địa chỉ tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

[3] Về thủ tục tố tụng khác: Ngày 08/4/2022 nguyên đơn chị Võ Đan Th và bị đơn anh Nguyễn Ánh N có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị T, anh Nhật.

[4] Nội dung vụ án:

[4.1[ Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Đan Th và anh Nguyễn Ánh N tự nguyện kết hôn, có làm thủ làm thủ tục đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 16/7/2018 nên áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xác định là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Xét thấy, chị T xác định không còn tình cảm với anh Nhật, do vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, thường xuyên cãi vả, to tiếng với nhau, là vợ chồng nhưng không sống chung với nhau ngày nào. Mặt khác anh Nhật cũng thừa nhận, vợ chồng có mâu thuẫn nhau nhưng là nhỏ nhặt, anh cũng xác định vợ chồng không sống chung ngày nào, nhà chị T ở đâu anh cũng không biết cụ thể. Tuy nhiên, anh còn tình cảm với chị T nên không đồng ý ly hôn. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 19 luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì:

“1. Vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.” Việc chị T và anh Nhật đều khai là vợ chồng nhưng không sống chung với nhau ngày nào, thậm chí anh Nhật cũng không biết cụ thể địa chỉ nhà chị T là cho thấy, chị T và anh Nhật không có sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, không thực hiện nghĩa vụ sống chung với nhau để chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Như vậy, yêu cầu ly hôn của chị T là có căn cứ chấp nhận.

[4.2] Về con chung: Không có.

[4.3] Về tài sản chung: Các đương sự đều khai không có, không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[4.4] Về nợ chung: Các đương sự đều khai không có, không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai phù hợp với chứng cứ có tại hồ sơ và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Chị Võ Đan T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 68, khoản 4 Điều 147, Điều 220, Điều 228, 266 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng các Điều 19, 51, 56, 57, 58 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Võ Đan T đối với bị đơn anh Nguyễn Ánh N về việc ly hôn.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Đan T được ly hôn với anh Nguyễn Ánh Nhật.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

Về án phí: Chị Võ Đan T phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) chị T đã nộp theo biên lai thu số 0000386 ngày 12/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

388
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 94/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:94/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:04/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về