Bản án về tranh chấp ly hôn số 72/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 72/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 21 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 216/2021/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 89/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 89/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Võ Thị Thu H, sinh năm: 1989 Địa chỉ: TP, Phường R, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt

- Bị đơn: Ông Trương Bảo Quốc H1, sinh năm: 1987;

Địa chỉ: NVT, Phường Q, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn Võ Thị Thu H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: bà và ông H1 tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 07/7/2008 tại Ủy ban nhân dân Phường 5, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Đến năm 2011 thì hôn nhân phát sinh mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, đến năm 2012 thì hai vợ chồng không chung sống với nhau, cũng không có bất cứ liên lạc nào. Đến nay, bà nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: bà và ông H1 có hai con chung là Trương Võ Minh Q, sinh ngày 15/5/2009, Trương Bảo Khánh U, sinh ngày 20/5/2011. Từ trước tới nay, hai con sống với bà và hiện đã đi học. Bà đề nghị được giao trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi, không yêu cầu ông H1 cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Tại bản tự khai ngày 19/4/2021, bị đơn Trương Bảo Quốc H1 trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: ông và bà H tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 5, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, hai vợ chồng sống với nhau đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã, từ đó đến nay, hai ông bà không chung sống với nhau. Nay bà H khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông thì ông đồng ý.

Về con chung: ông và bà H có hai con chung là Trương Võ Minh Q, sinh ngày 15/5/2009, Trương Bảo Khánh U, sinh ngày 20/5/2011, từ trước tới nay sống với gia đình bên ngoại nên ông đồng ý giao hai con chung cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi, ông không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Tại bản tự khai ngày 13/4/2021, các cháu Trương Võ Minh Q, Trương Bảo Khánh U có nguyện vọng được sống với mẹ.

Tòa án đã tiến hành xác minh mâu thuẫn hôn nhân của bà H, ông H1 nhưng chính quyền địa phương không nắm rõ.

Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Võ Thị Thu H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Tòa án xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, đương sự và thu thập chứng cứ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa, Thư ký, Hội đồng xét xử chấp hành đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H, cho bà H được ly hôn với ông H1, giao hai con chung là là Trương Võ Minh Q, sinh ngày 15/5/2009, Trương Bảo Khánh U, sinh ngày 20/5/2011 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án hôn nhân và gia đình về việc“Tranh chấp ly hôn” giữa nguyên đơn Võ Thị Thu H và bị đơn Trương Bảo Quốc H1. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

Ông H1 được Tòa án tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông H1.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: bà H và ông H1 tự nguyện đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, ông bà phát sinh mâu thuẫn và đã không sống chung với nhau từ nhiều năm nay, dẫn đến hôn nhân không thể hàn gắn. Quá trình giải quyết vụ án, bà H, ông H1 cùng xác định không còn tình cảm vợ chồng nên đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn. Hội đồng xét xử nhận thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa hai ông bà đã trầm trọng, cuộc sống chung không còn tồn tại, không còn sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau, hôn nhân không thể hàn gắn nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H.

Về con chung: bà H, ông H1 có hai con chung là Trương Võ Minh Q, sinh ngày 15/5/2009, Trương Bảo Khánh U, sinh ngày 20/5/2011. Bà H đề nghị được giao trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi, ông H1 đồng ý giao hai con chung cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, các con có nguyện vọng được sống với mẹ. Vì vậy, Hội đồng xét xử giao hai con chung cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của hai bên và của các con chung, phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Bà H không yêu cầu ông H1 cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: không có.

[3] Về án phí: bà H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;

khoản 4 Điều 147 và Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 56, 57, 58 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị Thu H. Bà Võ Thị Thu H và ông Trương Bảo Quốc H1 được ly hôn.

2. Về con chung: giao con chung là Trương Võ Minh Q, sinh ngày 15/5/2009, Trương Bảo Khánh U, sinh ngày 20/5/2011 cho bà Võ Thị Thu H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; Quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con; Quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: bà Võ Thị Thu H phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0003769 ngày 12/4/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà Võ Thị Thu H có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Ông Trương Bảo Quốc H1 vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

309
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 72/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:72/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về