TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 657/2024/HNGĐ-ST NGÀY 19/09/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 19 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 505/2024/TLST-HN&GĐ ngày 17 tháng 7 năm 2024 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 320/2024/QĐXX-ST ngày 13 tháng 8 năm 2024 và quyết định hoãn phiên tòa số 202/2024/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phan Thị Bảo N. Sinh năm: 1987. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 508- A4 G, phường G, quận B, thành phố Hà Nội và nơi cư trú: E5 T, phường T, quận B, thành phố Hà Nội. Chị N có mặt tại phiên tòa.
- Bị đơn: Anh Bùi Duy N1. Sinh năm: 1979. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: TDP A, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên và nơi cư trú: phường T, quận B, thành phố Hà Nội. Anh N1 vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai liên tiếp không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Phan Thị Bảo N trình bày:
- Về tình cảm: Chị và anh Bùi Duy N1 kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường G, quận B, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 68/2021 ngày 30/6/2021. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống tại E5 T, phường T, quận B, thành phố Hà Nội. Trong quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do vợ chồng luôn bất đồng quan điểm sống, sống không hợp nhau, sống không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Khi mâu thuẫn xảy ra hai vợ chồng tuy sống chung một nhà nhưng mỗi người ở một phòng riêng và không còn quan tâm đến nhau. Khi xảy ra mâu thuẫn hai bên gia đình đã giảng hòa cho vợ chồng nhưng không có kết quả. Nay chị xác nhận không còn tình cảm với anh N1 nên đề nghị tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh N1.
- Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Bùi Duy Bảo M, sinh ngày 11/12/2021. Khi ly hôn, chị có nguyện vọng là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Về cấp dưỡng nuôi con: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Chị tự thỏa thuận về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi ly hôn hai bên tự lo chỗ ở, không có khiếu kiện hay thắc mắc gì.
- Về các khoản vay nợ: Chị xác nhận vợ chồng không vay nợ nhau, không vay nợ ai và không cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về án phí: Chị tự nguyện chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng: Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về việc triệu tập lấy lời khai và tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn, tuy nhiên bị đơn vắng mặt không lý do, vì vậy Tòa án không tiến hành hòa giải cho nguyên đơn và bị đơn được, Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm như sau:
+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định Điều 48; Điều 198; khoản 2, 3 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
+ Thẩm quyền thụ lý và giải quyết vụ án, quan hệ pháp luật và tư cách tố tụng của người tham gia tố tụng Điều 28, 39, 40 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
+ Chuyển thông báo thụ lý vụ án, các quyết định đến Viện kiểm sát và các tống đạt cho đương sự theo đúng quy định từ Điều 170 đến Điều 175; Điều 191; Điều 195; Điều 196; Điều 199 và khoản 2 Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
+ Thực hiện nguyên tắc hòa giải, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo khoản 1 Điều 205; khoản 2 Điều 207; khoản 2 Điều 208; Điều 209; Điều 210 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và khoản 4 Điều 3 Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội nước CHXHCNVN.
+ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, thời gian chuẩn bị xét xử đã được Thẩm phán thực hiện theo đúng quy định tại Điều 220; điểm a khoản 1, khoản 4 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
+ Hội đồng xét xử chấp hành đúng theo các nguyên tắc cơ bản về xét xử và thành phần Hội đồng xét xử đúng theo quy định tại Điều 63; Điều 227; 228 và chương II Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
+ Thư kỷ phiên tòa đã thực hiện đúng các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 51; Điều 237 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
+ Đối với đương sự: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay đương sự đã được thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72, Điều 199; Điều 234 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
* Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 2 Điều 4; khoản 1 Điều 28; khoản 2 Điều 42; Điều 267 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 58; 63; khoản 4 Điều 70; khoản 1 Điều 71; khoản 1, khoản 3 Điều 81; Điều 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2015 để xem xét chấp nhận yêu cầu xin ly hôn. Về con chung: Anh chị có một con chung là cháu Bùi Duy Bảo M, sinh ngày 11/12/2021. Xét thấy, cháu Bảo M hiện nay chưa đủ 3 tuổi. Căn cứ Khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao con chung cho chị N là người trực tiếp trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục là có căn cứ. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị N xin tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung và nhà ở, vay nợ: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
Áp dụng Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009; Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội để tuyên nguyên đơn chịu án phí ly hôn sơ thẩm.
Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Phan Thị Bảo N và anh Bùi Duy N1 có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Anh Bùi Duy N1 sinh sống thường xuyên tại địa chỉ T, phường T, quận B, thành phố Hà Nội. Vì vậy, Tòa án tiến hành thụ lý giải quyết vụ án là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015.
[2] Về nội dung: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Phan Thị Bảo N và anh Bùi Duy N1 là quan hệ hôn nhân hợp pháp có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường G, quận B, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận kết hôn số 68/2021 ngày 30/6/2021. Trong quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng luôn bất đồng quan điểm sống, sống không hợp nhau, sống không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Khi mâu thuẫn xảy ra hai vợ chồng tuy sống chung một nhà nhưng mỗi người ở một phòng riêng và không còn quan tâm đến nhau. Khi xảy ra mâu thuẫn hai bên gia đình đã giảng hòa cho vợ chồng nhưng không có kết quả. Nay chị N xác định tình cảm vợ chồng không còn, khả năng đoàn tụ là không có, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Bùi Duy N1.
Tòa án đã tiến hành ghi ý kiến của đại diện tổ dân phố nơi anh chị sinh sống cho biết: Chị Phan Thị Bảo N và anh Bùi Duy N1 có thuê nhà tại E5 T, phường T, quận B, thành phố Hà Nội và có thông báo với tổ dân phố về việc thuê nhà khoảng tháng 5/2024. Trong quá trình vợ chồng chung sống ở khu dân cư không có thông báo với tổ dân phố về mâu thuẫn của anh chị. Nay chị N làm đơn xin ly hôn anh N1, tổ dân phố thấy đây là việc riêng của anh chị đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại biên bản ghi lời khai của ông Phan Văn T, sinh năm 1956 là bố đẻ của chị Phan Thị Bảo N với nội dung: Chị Phan Thị Bảo N và anh Bùi Duy N1 kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường G, quận B, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận kết hôn số 68/2021 ngày 30/6/2021. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị thuê nhà tại địa chỉ G, phường G, quận B, thành phố Hà Nội. Sau đó đến tháng 9/2023, anh chị thuê nhà tại E5 T, phường T, quận B, thành phố Hà Nội. Trong quá trình vợ chồng chung sống, anh chị cũng ít chia sẻ về mâu thuẫn của vợ chồng anh chị. Khoảng 2-3 tháng gần đây chị N có nói với ông về việc vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống, về cách sống cũng như sinh hoạt chung trong gia đình. Nay, chị N xin ly hôn anh N1, ông thấy anh chị đã đủ tuổi trưởng thành đấy là việc riêng của anh chị, anh chị quyết định như thế nào thì gia đình ông cũng đồng ý. Vợ chồng anh chị có một con chung là cháu Bùi Duy Bảo M, sinh ngày 11/12/2021. Trong trường hợp anh chị ly hôn, ông đề nghị Tòa án giải quyết cho chị N được nuôi con. Gia đình ông sẽ hỗ trợ về kinh tế để chị N chăm sóc và nuôi dưỡng cháu Bảo M tốt nhất. Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Anh chị không có tài sản chung. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Về các khoản vay nợ: Ông xác nhận vợ chồng không vay nợ gia đình ông và gia đình ông cũng không vay nợ anh chị. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Ngoài ra, ông không có yêu cầu hay đề nghị gì khác.
Hội đồng xét xử nhận thấy: Chị Phan Thị Bảo N và Anh Bùi Duy N1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, trong quá trình chung sống xảy ra nhiều mâu thuẫn, hai bên gia đình đã hòa giải nhưng không có kết quả vợ chồng đã sống ly thân từ thời điểm đầu năm 2020 đến nay. Tòa án cũng đã nhiều lần tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ nhưng anh N1 đều vắng mặt không có lý do, anh N1 không đến làm việc tại Tòa án thể hiện anh từ bỏ quyền, nghĩa vụ của mình. Thể hiện tình cảm vợ chồng không còn, khả năng đoàn tụ là không có, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 xử cho chị Phan Thị Bảo N được ly hôn anh Bùi Duy N1 là phù hợp.
Về con chung: Vợ chồng chị N, anh N1 có một con chung là cháu Bùi Duy Bảo M, sinh ngày 11/12/2021. Trong quá trình giải quyết vụ án anh N1 cũng không có ý kiến gì đối với con chung. Xét thấy, cháu Bảo M hiện nay chưa đủ 3 tuổi. Căn cứ Khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao con chung cho chị N là người trực tiếp trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục là có căn cứ. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị N xin tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Chị N xin tự thỏa thuận về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã có quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu chứng cứ về tài sản chung đối với anh N1. Tuy nhiên, anh N1 cũng không cung cấp cho Tòa án ý kiến gì về tài sản chung nên Tòa án không xem xét. Dành quyền khởi kiện bằng vụ án khác cho Chị N, anh N1 khi có yêu cầu.
Về khoản vay nợ: Chị N xác nhận vợ chồng không vay nợ nhau, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã ra quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu chứng cứ về khoản vay nợ đối với anh N1. Tuy nhiên, anh N1 cũng không cung cấp cho Tòa án ý kiến về khoản vay nợ nên Tòa án không xem xét. Dành quyền khởi kiện bằng vụ án khác cho chị N, anh N1 khi có yêu cầu.
Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Phan Thị Bảo N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.
Chị Phan Thị Bảo N, anh Bùi Duy N1 có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các căn cứ và nhận định trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ các Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Áp dụng các Điều 28, khoản 1 Điều 35, Điều 39; Điều 70; khoản 4 Điều 147; các Điều 203; 228, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Căn cứ vào Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Phan Thị Bảo N;
Chị Phan Thị Bảo N được ly hôn với anh Bùi Duy N1.
2. Về con chung: Chị Phan Thị Bảo N và anh Bùi Duy N1 có một con chung là Bùi Duy Bảo M, sinh ngày 11 tháng 12 năm 2021. Giao con chung là cháu Bùi Duy Bảo M cho chị N là người trực tiếp trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị N xin tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét 3. Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Chị Phan Thị Bảo N xin tự thỏa thuận về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét. Dành quyền khởi kiện bằng vụ án khác khi Chị Phan Thị Bảo N, Anh Bùi Duy N1 khi có yêu cầu về tài sản chung.
Về khoản vay nợ: Chị Phan Thị Bảo N xác nhận vợ chồng không vay nợ nhau, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét. Dành quyền khởi kiện bằng vụ án khác khi chị Phan Thị Bảo N, anh Bùi Duy N1 có yêu cầu.
4. Về án phí sơ thẩm: Chị Phan Thị Bảo N phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0030346 ngày 17 tháng 7 năm 2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
Án xử công khai sơ thẩm, chị Phan Thị Bảo N có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kề từ ngày tuyên án 19 tháng 9 năm 2024. Anh Bùi Duy N1 vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kề từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 657/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 657/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 19/09/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về