TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU ĐỨC, TỈNH B
BẢN ÁN 64/2023/HNGĐ-ST NGÀY 20/09/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 20 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Đức tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 139/2023/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2023 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2023/QĐXX-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh Thùy U, sinh năm 1984 (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt);
Địa chỉ: Thôn B, xã Đ, huyện C, tỉnh B.
Bị đơn: Ông Phạm Văn T, sinh năm: 1984 (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt);
Hộ khẩu thường trú: Thôn B, xã Đ, huyện C, tỉnh B; Chỗ ở hiện nay: Trại tạm giam Công an tỉnh B
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và các biên bản làm việc nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh Thùy U trình bày:
Bà Nguyễn Thị Thanh Thùy U và ông Phạm Văn T yêu thương nhau rồi đi đến kết hôn với nhau có đăng ký kết hôn vào ngày 27/11/2007 tại UBND xã Đ, thời gian đầu chung sống hòa thuận hạnh phúc nhưng sau đó thì này sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, ông T không quan tâm, lo lắng đến bà U và các con, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, kéo dài, không thể hàn gắn được và ông T, bà U đã sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Nay bà U không còn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà U yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà U được ly hôn với ông T.
Về con chung: Bà U và ông T có 03 người con chung là cháu Phạm Thị Ngọc A1, sinh ngày 14/9/2008, cháu Phạm Ngọc A, sinh ngày 24/3/2016 và cháu Phạm Ngọc Kim T, sinh ngày 23/3/2010. Nay ly hôn bà Nguyễn Thị Thanh Thùy U có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng 03 người con chung nêu trên.
Về cấp dưỡng nuôi con chung thì trước đây bà U có yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung nhưng nay bà U xin rút lại yêu cầu cấp dưỡng. Bà U không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Thanh Thùy U không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Theo bản tự khai bị đơn ông Phạm Văn T trình bày:
Ông T và bà U yêu thương nhau rồi đi đến kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại xã Đ, huyện Châu Đức vào ngày 27/11/2007. Thời gian đầu chung sống hòa thuận hạnh phúc nhưng sau đó giữa ông T và bà U nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, không tôn trọng lẫn nhau. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, kéo dài không thể hàn gắn được và ông T và bà U đã sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Nay vì không còn tình cảm vợ chồng nên bà U yêu cầu ly hôn với ông T thì ông T đồng ý ly hôn.
Về con chung: Ông T và bà U có 03 người con chung là cháu Phạm Thị Ngọc A1, sinh ngày 14/9/2008, cháu Phạm Ngọc A, sinh ngày 24/3/2016 và cháu Phạm Ngọc Kim T, sinh ngày 23/3/2010. Vì ông T đang phải chấp hành án nên nay ly hôn ông T đồng ý giao cho bà U được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 03 người con chung nêu trên và ông T không cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: Ông T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Vì ông T đang bị tạm giam không thể đến Toà án làm việc được nên ông T xin vắng mặt tại các buổi làm việc, tại phiên tòa. Đề nghi Tòa án làm việc, xét xử vắng mặt ông T . Ông T xin giữ nguyên ý kiến đã trình bày trong bản khai này.
Bị đơn là ông Phạm Văn T đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo đến tòa án để tham gia phiên họp, phiên hòa giải nhưng ông T đang bị tạm giam nên vắng mặt tại phiên hòa giải, vì vậy Tòa án không tiến hành ghi nhận hòa giải thành được.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Đức phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật của người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng và quan điểm giải quyết vụ án:
Về việc chấp hành pháp luật của những người tiến hành tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Châu Đức thụ lý vụ án đúng theo thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật về nội dung tranh chấp, thu thập đầy đủ chứng cứ và xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự. Hội đồng xét xử thực hiện đúng nguyên tắc xét xử trong phiên tòa sơ thẩm.
Về việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh Thùy U.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị Thanh Thùy U và ông Phạm Văn T có đăng ký kết hôn, nay bà U xin ly hôn nên đây là tranh chấp về ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Hiện bị đơn ông Phạm Văn T có nơi cư trú tại xã Đ, huyện C, tỉnh B, căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện Châu Đức.
[2] Bà Nguyễn Thị Thanh Thùy U và ông Phạm Văn T có đơn xin xét xử vắng mặt và giữ nguyên ý kiến yêu cầu của mình trong các biên bản làm việc, bản khai tại Tòa án nên Tòa án nhân dân huyện Châu Đức căn cứ vào Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt đối với ông T, bà U.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thanh Thùy U và ông Phạm Văn T cùng xác nhận, bà U và ông T yêu thương nhau rồi đi đến cưới nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện C, tỉnh B. Sống được một thời gian thì ông T và bà U nảy sinh mâu thuẫn, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, kéo dài không thể hàn gắn được.
Ông T và bà U cùng xác nhận nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, không tôn trọng lẫn nhau, không quan tâm lo lắng cho nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng kéo dài và ông T, bà U đã sống ly thân từ năm 2017 đến nay.
Vì cảm thấy không còn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà U yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà U được ly hôn với ông T.
Ông T thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn, không còn tình cảm vợ chồng và đồng ý ly hôn với bà U. Tuy ông T thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn và đồng ý ly hôn nhưng ông T không đến tham gia hòa giải nên không thể ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa ông T và bà U.
Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn nhận thấy có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng của nguyên đơn và bị đơn là trầm trọng, cả hai đều không có tiếng nói chung, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình chấp nhận cho bà U được ly hôn với ông T.
[4] Về con chung: Bà U và ông T có 03 người con chung là cháu Phạm Thị Ngọc A1, sinh ngày 14/9/2008, cháu Phạm Ngọc A, sinh ngày 24/3/2016 và cháu Phạm Ngọc Kim T, sinh ngày 23/3/2010. Bà U và ông T cùng thống nhất, đồng ý giao cho bà U được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 03 người con chung là cháu A1, cháu T và cháu A. Bà U và ông T cùng thống nhất ông T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành lấy ý kiến, nguyện vọng của con trên 7 tuổi đối với cháu T, cháu A1, cháu A và ghi nhận được nguyện vọng của các cháu muốn sống chung với bà U.
Căn cứ vào ý kiến, nguyện vọng của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và lợi lích được bảo vệ và nhận thấy bà U có thu nhập và nơi ở ổn định, để đảm bảo quyền lợi của con chung chưa thành niên, căn cứ vào Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận về con chung giữa các đương sự, giao cho bà U được trực tiếp nuôi dưỡng 03 người con chung là cháu Phạm Thị Ngọc A1, cháu Phạm Ngọc A và cháu Phạm Ngọc Kim T.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Vì bà U không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử nhận thấy cần ghi nhận sự tự nguyện của bà U là không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con chung.
[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Thanh Thùy U và ông Phạm Văn T không yêu cầu Toà án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét về tài sản chung và nợ chung.
[6] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thanh Thùy U phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình.
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án, lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
Về hôn nhân: Xử cho bà Nguyễn Thị Thanh Thùy U được ly hôn với ông Phạm Văn T.
Về con chung: Bà Nguyễn Thị Thanh Thùy U được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 03 người con chung là cháu Phạm Thị Ngọc A1, cháu Phạm Ngọc A và cháu Phạm Ngọc Kim T. Ông Phạm Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Ông Phạm Văn T được quyền thăm nom, chăm sóc con chung mà mình không trực tiếp nuôi dưỡng không ai được quyền ngăn cản.
Vì lợi ích của con theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 luật hôn nhân gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con.
Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Thanh Thùy U và ông Phạm Văn T không yêu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thanh Thùy U phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí đối với yêu cầu ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000147, ngày 19 tháng 4 năm 2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Bà Nguyễn Thị Thanh Thùy U đã nộp xong án phí sơ thẩm.
Hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 20 tháng 9 năm 2023) các đương sự được quyền kháng cáo. Do bà U và ông T đều vắng mặt nên thời hạn này được tính từ ngày nhận được bản án do Tòa án tống đạt hoặc niêm yết có quyền yêu cầu Toà án tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 64/2023/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 64/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Đức - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về