Bản án về tranh chấp ly hôn số 64/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN SỐ 64/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/08/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 13 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 281/2021/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2021 về tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 89/2021 QĐXXST - HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 69/2021/QĐ-DS ngày 27/7/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Lê Nguyên H, sinh năm 1973

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1981

Cùng HKTT: Đường T, phường Đ, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa có mặt anh H vắng mặt chị D.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn anh Lê Nguyên H trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 10/4/2017 tại UBND phường Đ, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, chị Hạnh nợ nần nhiều ngoài xã hội nên họ đến đổ chất bẩn vào nhà để đòi nợ dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã lẫn nhau. Mặc dù sống cùng nhà nhưng không quan tâm đến nhau.

Nay anh Hùng xác định tình cảm vợ chồng không còn, nên đề nghị Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá giải quyết cho anh được ly hôn chị Nguyễn Thị D.

Về con chung: Anh và chị D không có con chung nên không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản: Anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã thông báo thụ lý vụ án cho bị đơn là chị Nguyễn Thị D và tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật, triệu tập chị D đến Toà án để tự khai cũng như tham gia phiên hoà giải. Mặc dù nhận được thông báo hợp lệ nhưng chị D không có văn bản trả lời, cũng không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu ly hôn của anh H. Toà án đã lập biên bản về việc đương sự không đến Tòa làm bản tự khai và vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Toà án tiến hành thu thập chứng cứ, tại Biên bản xác minh do địa phương cung cấp thể hiện: Anh H và chị D kết hôn với nhau năm 2017 nhưng không có con chung. Trong quá trình chung sống tại địa phương, anh H và chị D có xảy ra mâu thuẫn. Việc anh H và chị D có mâu thuẫn như thế nào địa phương không nắm được. Hiện nay chị D vẫn đang sinh sống tại nhà anh H. Nay anh H có đơn xin ly hôn, đề nghị Toà án căn cứ theo pháp luật để giải quyết.

Tại phiên tòa, anh H vẫn giữ nguyên yêu cầu như trong đơn khởi kiện.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều tuân theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ thời điểm thụ lý vụ án đến nay đã thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật.

Đối với bị đơn: Tòa án đã thực hiện tống đạt hợp lệ nhiều lần đối với bị đơn nhưng chị Hạnh không chấp hành nên Tòa án xét xử vắng mặt là đúng quy định.

Quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Lê Nguyên Hù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn là chị Nguyễn Thị D vắng mặt, chị D đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Anh H đề nghị Toà án tiến hành xét xử vụ án, nên Toà án căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết vắng mặt chị D là phù hợp quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân:

Anh Lê Nguyên H và chị Nguyễn Thị D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống và do chị D nợ nần ngoài xã hội dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã lẫn nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không được cải thiện.

Theo quy định của pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chung xây cuộc sống, hạnh phúc gia đình, nhưng ở đây anh H không còn tình cảm với chị D; Vợ chồng không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã phân tích, động viên anh H nên suy nghĩ kỹ trước khi quyết định việc ly hôn nhưng anh H vẫn cương quyết xin ly hôn chị D. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập chị D nhiều lần để hòa giải nhưng chị D vẫn vắng mặt, chứng tỏ chị D không có thiện chí để hàn gắn mối quan hệ vợ chồng. Xét thấy mâu thuẫn đã trầm trọng, kéo dài, mục đích hôn nhân giữa hai vợ chồng không đạt được. Do đó nếu buộc anh, chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng không thể cải thiện được nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của anh Lê Nguyên H về việc xin ly hôn chị Nguyễn Thị D.

[3] Về con chung: Anh Lê Nguyên H và chị Nguyễn Thị D không có con chung, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản và công nợ: Anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Anh H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56; Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án.

Xử:

- Về hôn nhân: Anh Lê Nguyên H được ly hôn chị Nguyễn Thị D.

- Về con chung: Anh Lê Nguyên H và chị Nguyễn Thị D không có con chung.

- Về tài sản và công nợ: Anh H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí: Anh Lê Nguyên H phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2018/00012456 ngày 05/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa. Anh H đã nộp đủ án phí.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 64/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:64/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:13/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về