TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH K
BẢN ÁN 57/2022/HNGĐ-ST NGÀY 07/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 07 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh K xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 11/2022/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2022 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 77/2022/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Ông Lê Thanh L, sinh năm 1965.
HKTT: Ấp M, xã V, huyện A, tỉnh K.
Chổ ở hiện nay: Ấp 40, xã T, huyện A, tỉnh K.
* Bị đơn : Bà Huỳnh Thị Đ, sinh năm 1966.
HKTT: Ấp M, xã V, huyện A, tỉnh K.
Chổ ở hiện nay: Ấp N, xã V, huyện A, tỉnh K.
(Ông L có mặt; Bà Đ vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, các ý kiến và yêu cầu trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Lê Thanh L trình bày:
- Ông và bà Đ chung sống với nhau năm 1990, được cha mẹ hai bên đứng ra tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán, ông bà cũng đồng ý lấy nhau làm vợ chồng, do cuộc sống vợ chồng hiểu biết pháp luật có hạn cho nên mãi đến nay không đăng ký kết hôn. Sau khi đám cưới thì ông bà chung sống với cha mẹ ông một thời gian thì ra riêng, sau đó ông bà chuyển về xã V lập nghiệp, trong thời gian này do cuộc sống vợ chồng không hợp nhau nên có mâu thuẫn. Nguyên nhân lúc đầu ông đi chơi với bạn bè, tụ tập rượu chè, gái gú vợ ông biết được việc làm sai của ông. Bà Đ dùng lời lẽ xúc phạm ông rất nhiều, các giấy tờ tùy thân của ông, bà Đ quản lý tất cả. Ông đã suy nghĩ và khắc phục mong vợ ông thông cảm bỏ qua để vợ chồng sống nuôi con, gia đình hai bên đã hòa giải vợ chồng ông về sống lại. Vợ ông không nói gì nên ông về nhà sống chung với vợ con nhưng suốt ngày bà Đ cứ chửi mắng ông, không cho ông bước ra khỏi nhà cho nên mâu thuẫn vợ chồng suốt ngày cự cãi nhau nên ông bỏ đi sống ly thân với bà Đ từ năm 2020 cho đến nay. Ông suy nghĩ tính tình vợ chồng sống không còn hạnh phúc.
Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết:
Về tình cảm: Cho ông được ly hôn với bà Huỳnh Thị Đ.
Về con chung: Ông và bà Đ có 02 con chung là Lê Văn Q, sinh ngày 18/6/1992 và Lê Thị Bích T, sinh ngày 02/3/2001. Hai đứa con đã đủ tuổi trưởng thành, tự lao động sinh sống được, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Có 01 căn nhà loại cột cây, nền lát gạch, vách dừng tôn, máy lợp tôn, cất năm 2019 (ngang 06m, dài 16 m), cất trên phần đất của vợ chồng thỏa thuận giao con trai tên Lê Văn Q. Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Bị đơn bà Huỳnh Thị Đ không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thanh L, mặc dù Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng đúng theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa hôm nay:
Ông L xác định vẫn giữ yêu cầu ly hôn với bà Huỳnh Thị Đ. Các con chung đã đủ tuổi trưởng thành, tự lao động sinh sống được, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Ông L xác định đã tự thỏa thuận, không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Bà Đ: Vắng mặt không có lý do mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ nhiều lần.
- Phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng, bị đơn vắng mặt không đảm bảo theo quy định tại khoản 16 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về quan hệ hôn nhân: Ông Lê Thanh L và bà Huỳnh Thị Đ xác định xác lập quan hệ vợ chồng năm 1990, nhưng không có đăng ký kết hôn nên đề nghị Hội đồng xét xử không công nhận ông Lê Thanh L và bà Huỳnh Thị Đ là vợ chồng. Ông L xác định giữa ông và Bà Đ có 02 con chung là Lê Văn Q, sinh ngày 18/6/1992 và Lê Thị Bích T, sinh ngày 02/3/2001. Hai con chung đã đủ tuổi trưởng thành, tự lao động sinh sống được nên không đặt ra xem xét giải quyết. Về tài sản chung xác định tự thỏa thuận, không tranh chấp nên không đặt ra xem xét giải quyết. Về nợ chung không có nên không đặt ra xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bà Huỳnh Thị Đ là bị đơn trong vụ án, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng bà đã vắng mặt không lý do chính đáng, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan là từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình được pháp luật bảo vệ nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bà Đ trong vụ án này.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Theo ông Lê Thanh L trình bày ông và bà Đ chung sống với nhau năm 1990, được cha mẹ hai bên đứng ra tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán, do cuộc sống vợ chồng hiểu biết pháp luật có hạn cho nên mãi đến nay không đăng ký kết hôn. Sau khi đám cưới do cuộc sống vợ chồng không hợp nhau nên có mâu thuẫn. Nguyên nhân lúc đầu ông đi chơi với bạn bè, tụ tập rượu chè, gái gú vợ ông biết được việc làm sai của ông. Bà Đ dùng lời lẽ xúc phạm ông rất nhiều, các giấy tờ tùy thân của ông, bà Đ quản lý tất cả. Ông đã suy nghĩ và khắc phục mong vợ ông thông cảm bỏ qua để vợ chồng sống nuôi con, gia đình hai bên đã hòa giải vợ chồng ông về sống lại. Vợ ông không nói gì nên ông về nhà sống chung với vợ con nhưng suốt ngày bà Đ cứ chửi mắng ông, không cho ông bước ra khỏi nhà cho nên mâu thuẫn vợ chồng suốt ngày cự cãi nhau nên ông bỏ đi sống ly thân với bà Đ từ năm 2020 cho đến nay. Ông suy nghĩ tính tình vợ chồng sống không còn hạnh phúc nên ông yêu cầu được ly hôn với bà Đ.
Bà Đ không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện cũng như nguyên nhân mâu thuẫn mà phía ông L đưa ra. Mặc dù Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng nhiều lần nhưng bà Đ bỏ mặc không có văn bản thể hiện ý kiến, nguyện vọng của mình là muốn duy trì quan hệ hôn nhân này. Như vậy, bà Đ mặc nhiên thừa nhận nguyên nhân ông L đưa ra là đúng. Đồng thời căn cứ vào xác nhận của Ủy ban nhân dân xã V xác nhận giữa ông L và bà Đ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng chưa thực hiện việc đăng ký kết hôn. Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân của ông L và bà Đ đã thật sự trầm trọng vì giữa ông, bà đã không còn sự cảm thông, yêu thương chăm sóc lẫn nhau, ông bà đã ly thân thời gian khá lâu mà vẫn không thể hàn gắn đoàn tụ. Do ông, bà có đủ điều kiện để đăng ký kết hôn, nhưng không đi đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đăng ký theo quy định. Nay có tranh chấp xin ly hôn nên trường hợp này pháp luật quy định ông L và bà Đ không được công nhận là vợ chồng theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Ông L xác định giữa ông và bà Đ có 02 chung là Lê Văn Q, sinh ngày 18/6/1992 và Lê Thị Bích T, sinh ngày 02/3/2001. Ông L xác định các con chung đã đủ tuổi trưởng thành, tự lao động sinh sống được, bà Đ không có ý kiến gì về con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
[4] Về tài sản chung: Ông L xác định có tài sản chung nhưng ông, bà đã tự thỏa thuận, xác định không tranh chấp. Bà Đ không có ý kiến gì về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết. Nếu sau này có tranh chấp có quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác.
[5] Về nợ chung: Ông L xác định không có. Bà Đ không có ý kiến gì về nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết
[6] Về án phí: Ông Lê Thanh L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 24; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
[7] Xét đề nghị của Vị Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp, cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Các Điều 227, 228, 147, 271, 273, 278, 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Các Điều 9, 14, 15, 51, 53 Luật Hôn nhân và gia đình;
- Các Điều 24; 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
- Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
Xử: 1. Về hôn nhân: Tuyên bố không công nhận ông Lê Thanh L và bà Huỳnh Thị Đ là vợ chồng.
2. Về con chung: Có 02 chung là Lê Văn Q, sinh ngày 18/6/1992 và Lê Thị Bích T, sinh ngày 02/3/2001, đã trưởng thành, tự lao động sinh sống được nên không đặt ra xem xét giải quyết.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết do không có yêu cầu.
4. Về án phí: Ông Lê Thanh L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Ông L đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0005225 ngày 06 tháng 01 năm 2022 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện A nên cấn trừ xem như Ông L đã thi hành xong phần án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Ông Lê Thanh L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bà Huỳnh Thị Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh K xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 57/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 57/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 07/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về