Bản án về tranh chấp ly hôn số 50/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 50/2022/HNGĐ- ST NGÀY 28/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Ngày 28/6/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 128/2022/TLST- HNGĐ, ngày 12 tháng 4 năm 2022 về việc Tranh chấp ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40a/2022/QĐST- HNGĐ, ngày 27/5/2022; quyết định hoãn phiên tòa số 30/2022/ST-HNGĐ ngày 13/6/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đình K, sinh năm 1967.

- Bị đơn: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1975.

Cùng địa chỉ: Tổ dân phố Q, thị trấn S, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

(Ông K có đơn xin xét xử vắng mặt, bà H vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Nguyễn Đình K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Đình K và bà Vũ Thị H tổ chức lễ cưới vào năm 1992. Tuy nhiên, ông bà không làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định. Sau ngày cưới hai vợ chồng ông bà cùng làm ăn sinh sống tại tổ dân phố Q, thị trấn S, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng đến năm 2005 vợ chồng ông bà phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm dẫn đến thường xuyên xảy ra cãi vã khiến cho cuộc sống chung luôn trong tình trạng căng thẳng.

Nay ông xác định tình cảm không còn, không thể đoàn tụ được, do ông và bà H không đăng ký kết hôn nên đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Ông K và bà H có 02 con chung là cháu Nguyễn Như K, sinh ngày 28/02/1993 và cháu Nguyễn Ngọc Q, sinh ngày 17/10/1995. Hiện nay các cháu đều đã trưởng thành ông không đề nghị Toà án xem xét giải quyết.

Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Ông K xác định tự thỏa thuận, không đề nghị Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bà H trốn tránh, không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Do đó Tòa án không lấy được lời khai và tiến hành hòa giải được.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 10/5/2022, ông Nguyễn Như T (Ông T là em trai ruột của ông Nguyễn Đình K) là người làm chứng trình bày:

Về thời gian kết hôn và quá trình chung sống của ông K và bà H như ông K trình bày là đúng. Khoảng đầu năm 2005 giữa vợ chồng ông bà có phát sinh mâu thuẫn cãi chửi nhau. Vợ chồng ông K và bà H cũng không còn chung sống cùng nhau từ năm 2005 đến nay. Hiện nay bà H đang đi làm ăn xa nhà, bà H đi đâu, làm gì, địa chỉ cụ thể thì ông không nắm rõ.

Về con chung vợ chồng ông bà có hai con chung là cháu Nguyễn Như K, sinh ngày 28/02/1993 và cháu Nguyễn Ngọc Q, sinh ngày 17/10/1995. Hiện nay các cháu đều đã trưởng thành và lập gia đình.

Tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương phát biểu quan điểm: Toà án đã thụ lý, giải quyết vụ án ly hôn sơ thẩm về việc “Tranh chấp ly hôn” là đúng thẩm quyền, đúng nội dung tranh chấp. Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, thẩm phán và Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 28, 147, 228, 235, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 14, 15 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đình K, không công nhận ông Nguyễn Đình K và bà Vũ Thị H là vợ chồng. Về con chung có 02 con chung là cháu Nguyễn Như K, sinh ngày 28/02/1993 và cháu Nguyễn Ngọc Q, sinh ngày 17/10/1995. Hiện nay các cháu đều đã trưởng thành nên không xem xét. Về tài sản, đất đai, vay nợ không có tranh chấp nên không xem xét. Về án phí ly hôn sơ thẩm ông Nguyễn Đình K phải chịu án phí. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, HĐXX nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Ông Nguyễn Đình K khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, do vậy quan hệ pháp luật tranh chấp xác định là: Tranh chấp ly hôn theo quy định tại khoản 1, Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: kết quả xác minh xác định ông Nguyễn Đình K và bà Vũ Thị H đều đăng ký hộ khẩu thường trú và hiện đang sinh sống tại tổ dân phố Q, thị trấn S, huyện Sơn Dương. Vì vậy, căn cứ khoản 1, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương.

[3] Ông Nguyễn Đình K có đơn xin xét xử vắng mặt, bà Vũ Thị H đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, HĐXX căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[4] Về yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Đình K, HĐXX nhận định: Căn cứ kết quả xác minh tại chính quyền địa phương: Từ năm 1992 đến nay, không có trường hợp nào có tên chồng là Nguyễn Đình K, vợ là Vũ Thị H đăng ký kết hôn.

Tại khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng”.

Ông Nguyễn Đình K và bà Vũ Thị H chung sống với nhau từ năm 1992 đến nay không có đăng ký kết hôn mặc dù có đủ điều kiện kết hôn, xong các bên không thực hiện nghĩa vụ kết hôn mà vẫn chung sống cùng nhau là hôn nhân bất hợp pháp, không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Do vậy, HĐXX cần xử không công nhận ông Nguyễn Đình K và bà Vũ Thị H là vợ chồng.

[5] Về việc giao nuôi con chung khi ly hôn, HĐXX nhận định: Ông Nguyễn Đình K và bà Vũ Thị H có 02 con chung là cháu Nguyễn Như K, sinh ngày 28/02/1993 và cháu Nguyễn Ngọc Q, sinh ngày 17/10/1995. Hiện nay các cháu đều đã trưởng thành nên không xem xét.

[6] Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Ông K không đề nghị Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[7] Về án phí: Ông Nguyễn Đình K phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bà Vũ Thị H không phải nộp án phí.

[8] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 39, 147, 228, 264, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng khoản 1 Điều 14, Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình của Luật Hôn nhân và gia đình; Ngh quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 ca y ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án,

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đình K về việc Kiện Tranh chấp ly hôn đối với bà Vũ Thị H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận ông Nguyễn Đình K và bà Vũ Thị H là vợ chồng.

2. Về nuôi con chung: Ông Nguyễn Đình K và bà Vũ Thị H có 02 con chung là cháu Nguyễn Như K, sinh ngày 28/02/1993 và cháu Nguyễn Ngọc Q, sinh ngày 17/10/1995. Hiện nay các cháu đều đã trưởng thành nên không xem xét.

3. Về án phí: Ông Nguyễn Đình K phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002019 ngày 12 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Bà Vũ Thị H không phải nộp án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 50/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:50/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về