Bản án về tranh chấp ly hôn số 45/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 45/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Ngày 08 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 17/2022/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 02 năm 2022 về việc tranh chấp về ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 18/2022/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Hoàng C, sinh năm 1990. Địa chỉ: Tổ 24, ấp B, xã CG, huyện G, tỉnh Tây Ninh (Vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Cao Văn T, sinh năm 1990. Địa chỉ: Tổ 30, ấp V 1, xã P, huyện G, tỉnh Tây Ninh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các lần hòa giải nguyên đơn chị Lê Thị Hoàng C trình bày:

Chị và anh Cao Văn T chung sống với nhau vào năm 2020, có tìm hiểu trước nên hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện G vào ngày 06-01-2020. Ngày làm lễ cưới gia đình anh T có cho chị nữ trang nhưng chị không nhớ cụ thể cho nữ trang gì và hiện số nữ trang này không còn. Sau khi cưới vợ chồng chị về nhà của cha mẹ chồng tại ấp V 1, xã P, huyện G sinh sống và làm ăn.

Vợ chồng chị chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2020 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng chị chung sống bất đồng ý kiến, anh T thường xuyên ăn chơi mà không lo lắng, chăm sóc cho gia đình và chị đã khuyên nhiều lần nhưng không chịu thay đổi. Anh T cùng với mẹ chồng của chị thường xuyên đuổi chị ra khỏi nhà và chị nghi ngờ anh T có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác vì chị thấy anh T chụp hình cùng với người phụ nữ đó đi du lịch tại L. Cảm thấy vợ chồng chung sống không hạnh phúc nên từ tháng 02-2021 chị bỏ về nhà của cha mẹ chị tại ấp B, xã CG, huyện G sống cho đến nay. Kể từ ngày ly thân cho đến nay vợ chồng chị không có gặp mặt nhau để bàn bạc việc đoàn tụ gia đình. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn và không thể hàn gắn được nữa nên chị yêu cầu được ly hôn với anh T.

Về con chung: Anh chị chung sống không có con chung nên chị không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: Không có nên chị không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có nên chị không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Cao Văn T: Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh T để thu thập chứng cứ, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh T không đến nên không có ý kiến bằng văn bản để gửi cho Tòa án.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật và giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa; việc chấp hành của người tham gia tố tụng dân sự (trừ anh T), kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi vào nghị án được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị: Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị C đối với anh T, chị C được ly hôn với anh T; về con chung: Không có nên không yêu cầu giải quyết; về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị C vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt nên vụ án vẫn được tiến hành xét xử theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Chị C và anh T chung sống với nhau vào năm 2020 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện G. Do đó, hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ, nay chị C có yêu cầu ly hôn, Tòa án thụ lý và giải quyết theo thủ tục chung.

Xét yêu cầu ly hôn của chị C thì thấy: Mâu thuẫn của anh chị chủ yếu phát sinh từ việc bất đồng ý kiến và anh T thường xuyên ăn chơi mà không quan tâm lo lắng cho gia đình. Thêm vào đó, anh T và mẹ của anh T nhiều lần đuổi chị C ra khỏi nhà và chị C còn nghi ngờ anh T có quan hệ với người phụ nữ khác do đi du lịch chụp hình chung với nhau. Nhiều lần chị C đã khuyên nhưng anh T không thay đổi dẫn đến tháng 02-2021 chị C bỏ về nhà cha mẹ của chị C tại ấp B, xã CG, huyện G sống cho đến nay. Tòa án đã nhiều lần tổ chức phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng của anh chị nhưng anh T không đến, chứng tỏ anh T đã bỏ mặc đến tình cảm của vợ chồng và không có thiện chí được đoàn tụ với chị C. Xét thấy, hôn nhân của anh chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị C là có căn cứ và phù hợp với Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị C khai không có nên không yêu cầu giải quyết. [2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị C không yêu cầu giải quyết.

Từ những nhận định trên xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu là có căn cứ và phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về án phí: Chị C phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Lê Thị Hoàng C đối với anh Cao Văn T. Chị C được ly hôn với anh T.

2. Về con chung: Chị C khai không có nên không yêu cầu giải quyết.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị C không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí: Chị C phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị C đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0023974 ngày 11 tháng 02 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Tây Ninh. Ghi nhận chị C đã nộp xong tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 45/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:45/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về