Bản án về tranh chấp ly hôn số 43/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 43/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/11/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 16 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 61/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 11 năm 2020 về: “tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 44/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Đỗ Thị L; cư trú tại: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long.

- Bị đơn: anh Lin, Chu- M; cư trú tại: Đài Loan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện 03/11/2020 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Đỗ Thị L trình bày: Chị và anh Lin, Chu- M kết hôn vào năm 2001, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long, hôn nhân do mai mối. Sau khi kết hôn, anh Lin, Chu- M bảo lãnh chị sang Đài Loan chung sống. Chị và anh Lin, Chu- M có một con chung tên Lin Chu V, sinh năm 2001. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng ngôn ngữ và quan điểm sống, anh Lin, Chu- M tính tình gia trưởng, thường xuyên đánh đập chị. Đến năm 2004, chị không chịu đựng được nên về Việt Nam sống và ly thân với anh Lin, Chu- M cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu được ly hôn với anh Lin, Chu- M.

Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Chị Đỗ Thị L có đơn xin xét xử vắng mặt. Đối với bị đơn anh Lin, Chu- M được Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long tiến hành ủy thác tư pháp theo quy định để tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án cho anh. Trong đó, ấn định ngày mở phiên họp hòa giải, ngày mở phiên tòa. Cơ quan có thẩm quyền của Lãnh thổ Đài Loan đã tống đạt hồ sơ ủy thác tư pháp cho anh Lin, Chu- M vào ngày 15/3/2021. Tuy nhiên, anh Lin, Chu- M không gửi ý kiến về Tòa án và không có mặt để tham dự phiên tòa. Căn cứ Điều 227, Điều 238 và Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án giải quyết vắng mặt đối với chị Đỗ Thị L và anh Lin, Chu- M.

[2] Chị Đỗ Thị L và anh Lin, Chu- M kết hôn vào năm 2001 có đăng ký kết hôn tại tại Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Đỗ Thị L là công dân Việt Nam với anh Lin, Chu- M quốc tịch Lãnh thổ Đài Loan là quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được quy định tại khoản 25 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại điểm d khoản 1 Điều 469 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định việc ly hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 37, điểm c khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long. Căn cứ vào Điều 127 Luật Hôn nhân và Gia đình của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì việc ly hôn này được áp dụng pháp luật Việt Nam giải quyết.

[3] Nhận thấy chị Đỗ Thị L và anh Lin, Chu- M kết hôn do mai mối, thời gian tìm hiểu nhau chưa kỹ. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, theo chị Đỗ Thị L trình bày do bất đồng ngôn ngữ và quan điểm sống, anh Lin, Chu- M tính tình gia trưởng, thường xuyên đánh đập chị. Đến năm 2004, chị về Việt Nam sinh sống và vợ chồng ly thân với nhau cho đến nay. Xét thấy chị Đỗ Thị L và anh Lin, Chu- M hai người ở hai nước khác nhau, trong thời gian dài không còn liên lạc với nhau, điều này thể hiện không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, không thực hiện nghĩa vụ vợ chồng, quan hệ hôn nhân giữa hai người chỉ tồn tại trên hình thức, thực chất tình cảm vợ chồng không còn. Vì vậy có căn cứ để xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Đỗ Thị L và anh Lin, Chu- M trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, việc chị Đỗ Thị L yêu cầu ly hôn với anh Lin, Chu- M là có cơ sở chấp nhận.

[4] Về con chung, tài sản chung và nợ chung chị Đỗ Thị L không yêu cầu giải quyết.

[5] Về án phí: căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì chị Đỗ Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[6] Tại phiên Tòa vị Kiểm sát viên phát biểu việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và đề nghị: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn. Nhận thấy đề nghị của Kiểm sát viên phù hợp với tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, áp dụng đúng quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 127 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về quan hệ hôn nhân: chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đỗ Thị L. Cho chị Đỗ Thị L được ly hôn với anh Lin, Chu- M.

2. Án phí: chị Đỗ Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí chị đã nộp theo biên lai thu số 3020 ngày 19 tháng 11 năm 2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Long.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết chị Đỗ Thị L được quyền kháng cáo. Anh Lin, Chu- M được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 43/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:43/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về