Bản án về tranh chấp ly hôn số 430/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 430/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 04/7/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 152/2022/TLST - HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2022 về việc tranh chấp Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2022/QĐXXST – HNGĐ ngày 23 tháng 5 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 30/2022/QĐST – HNGĐ ngày 09 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trần Thị T, sinh ngày 27/11/1969, căn cước công dân số 001169003xxx do Cục cảnh sát cấp ngày 10/7/2021. Có mặt tại phiên tòa.

Hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn Đ, xã PM, huyện SS, thành phố Hà Nội.

Bị đơn: Ông Phan Quốc H, sinh năm 1966. Vắng mặt tại phiên tòa. Hộ khẩu thường trú: Thôn QÂ, xã BH, huyện ĐA, thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị T và ông Phan Quốc H kết hôn trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã PM, huyện SS, thành phố Hà Nội ngày 09/4/2012.

Theo bà T trình bày: Do trước khi kết hôn với nhau ông bà đều đã có gia đình nhưng đã ly hôn và có con lớn nên sau khi kết hôn ông bà không chung sống thường xuyên cùng nhau mà bà T vẫn ở nhà bà tại SS còn ông H đi làm bảo vệ nên ở tại nơi ông làm việc. Khi được nghỉ hoặc làm ca ngày thì tối ông H lại về nhà bà T ở cùng bà. Ông bà chung sống hòa thuận đến khoảng năm 2014 do bà T có cháu nhỏ nên bà đi trông cháu và từ đó ông bà ít gặp gỡ nhau nên tình cảm dần xa cách, hay lời qua tiếng lại với nhau. Việc mâu thuẫn của ông bà tiếp diễn đến tháng 8 năm 2018 thì ông bà cắt đứt liên lạc, cụ thể là ông H không về gặp bà, bà gọi điện ông H không nghe. Bà không biết ông H làm bảo vệ ở đâu nên không đi tìm ông và cũng không thể cung cấp địa chỉ nơi làm việc của ông cho Tòa án.

Chính quyền địa phương chưa lần nào hoà giải mâu thuẫn của ông bà vì không ai có yêu cầu hoà giải. Bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, thời gian ly thân kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Toà án giải quyết cho bà được ly hôn với ông H để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Bà xác định ông bà không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Bà xác định ông bà không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với ông Phan Quốc H Tòa án đã tiến hành các thủ tục xác minh tại nơi cư trú xác định: Ông H có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn QÂ, xã BH, huyện ĐA, Hà Nội, không cắt chuyển khẩu đi nơi khác. Tuy nhiên, sau khi ly hôn người vợ đầu tiên đang sinh sống ở thôn QÂ, xã BH, huyện ĐA, Hà Nội, ông H thường xuyên không sinh sống tại địa phương. Ông H và bà T chưa từng sinh sống cùng nhau tại địa phương nên địa phương không nắm bắt được về quan hệ hôn nhân của ông bà để cung cấp cho Tòa án. Theo các con ông H đang ở thôn QÂ, xã BH cung cấp: Ông H đi làm bảo vệ nhưng không rõ địa chỉ nơi làm việc và chỉ thỉnh thoảng ông về qua nhà có khi ngủ lại, có khi chỉ tạt qua rồi đi. Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho ông H theo quy định của pháp luật. Cho đến nay ông H không liên hệ với Tòa án và cũng không có ý kiến phản hồi về các yêu cầu của bà T.

Xác minh tại nơi ông Hvà bà T đăng ký kết hôn là xã PMh, huyện SS, thành phố Hà Nội và nơi theo bà T khai là ông bà sinh sống cùng nhau ở thôn Đ, xã PM, huyện SS, thành phố Hà Nội, được cung cấp: Ông H và bà T có đăng ký kết hôn tại xã PM, huyện SS, thành phố Hà Nội. Sau khi kết hôn ông H không chuyển khẩu và cũng không đăng ký tạm trú tại xã PM, huyện SS, Hà Nội mà chỉ thỉnh thoảng về ở cùng bà T tại nhà đất của gia đình bà T có từ trước ở xã PM, huyện SS. Tuy nhiên, từ năm 2018 cho đến nay địa phương không thấy ông H về ở cùng bà T. Nguyên nhân mâu thuẫn và lý do tại sao ông H không về ở cùng bà T, địa phương không nắm được do không ai yêu cầu địa phương hòa giải, không có cãi vã, xô xát khiến địa phương phải giải quyết.

Tại phiên tòa: Bà T giữ nguyên các ý kiến, yêu cầu đã trình bày với Tòa án. Bà xác định: Sau khi kết hôn ông bà có thuê nhà và ở chung cùng nhau trong vòng khoảng 8 tháng nhưng sau đó ông bà không tiếp tục thuê nhà ở cùng nhau mà mỗi người về nhà mình ở và thỉnh thoảng qua lại với nhau. Từ khoảng năm 2014, 2015 khi bà đi trông cháu thì ông bà không có thời gian qua lại với nhau khiến tình cảm phai nhạt. Từ năm 2018, ông H cắt đứt toàn bộ liên lạc với bà và ông bà ly thân từ đó đến nay. Bà không thể liên lạc với ông H để giải quyết quan hệ của ông bà nên xin ly hôn để ổn định cuộc sống riêng. Về con chung của ông bà: Bà T xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung bà xác định ông bà không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đã tuân theo đúng quy định của pháp luật.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh về việc giải quyết vụ án:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Trần Thị T với ông Phan Quốc H.

Về con: Ông bà không có con chung.

Về tài sản chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không giải quyết.

Về án phí ly hôn sơ thẩm: Bà Trần Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm không giá ngạch.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn ông Phan Quốc H đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không trình bày các ý kiến về các yêu cầu của bà T trong vụ kiện; đã được tống đạt hợp lệ đến phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt lần thứ hai không có lý do, do vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, dành quyền kháng cáo cho ông theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân giữa bà Trần Thị T và ông Phan Quốc H: Ông bà tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã PM, huyện SS, thành phố Hà Nội. Do vậy, xác định quan hệ hôn nhân của bà Trần Thị T và ông Phan Quốc H là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận. Trước khi kết hôn cùng nhau ông bà đều đã từng có vợ, chồng và con riêng, ông H đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn QÂ, xã BH, huyện ĐA, thành phố Hà Nội còn bà T đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn Đ, xã PM, huyện SS, thành phố Hà Nội. Sau khi đăng ký kết hôn ông bà vẫn giữ nguyên nơi đăng ký hộ khẩu thường trú không ai cắt chuyển khẩu theo ai. Ông bà không chung sống thường xuyên ổn định cùng nhau tại một nơi mà bà T ở nhà bà tại thôn Đi, xã PM, ông H đi làm và thỉnh thoảng về ở cùng bà T tại nhà bà nhưng không đăng ký tạm trú tại nhà bà T. Quá trình chung sống từ năm 2018 cho đến nay, ông H không về ở cùng bà T tại nhà bà T mà bà ở một mình. Nguyên nhân mâu thuẫn của ông bà theo bà T là do trước đó bà có cháu nhỏ nên đi trông cháu ở xa, thời gian này ông H và bà T không gặp gỡ được nhau nên tình cảm phai nhạt dần và từ năm 2018 thì ông H không về ở cùng bà nữa dù bà đã về ở nhà bà tại xã PM, bà không liên hệ được với ông H. UBND xã PM xác định không rõ nguyên nhân mâu thuẫn của ông bà nhưng việc ông H không còn chung sống với bà T từ năm 2018 cho đến nay tại địa phương là đúng. Bà T xin ly hôn, ông H không trình bày ý kiến, quan điểm đối với yêu cầu ly hôn và các vấn đề khác có liên quan, không đến Tòa án tham gia tố tụng để Tòa án hòa giải cho vợ chồng ông bà theo quy định của pháp luật do vậy Tòa án không tiến hành hòa giải cho ông bà được. Mặc dù không hòa giải được cho ông bà nhưng qua xác minh thể hiện thời gian ly thân của ông bà kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Trần Thị T và ông Phan Quốc H là phù hợp quy định của pháp luật.

[3] Về con chung: Ông bà không có con chung và bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết là phù hợp quy định của pháp luật.

[4] Về tài sản chung của vợ chồng: Bà T xác định ông bà không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, ông H không có ý kiến, yêu cầu gì khác nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí ly hôn sơ thẩm: 300.000 đồng, bà Trần Thị T phải chịu là phù hợp theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 56, Điều 58 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Khoản 1 Điều 28, Điều 203, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Trần Thị T và ông Phan Quốc. Bà Trần Thị T được ly hôn ông Phan Quốc H.

Về con chung: Bà Trần Thị T và ông Phan Quốc H không có con chung.

Về tài sản của vợ chồng: Bà T không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

Về án phí ly hôn sơ thẩm: 300.000 đồng, bà Trần Thị T chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2020/0046xxx ngày 18/3/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh. Bà T đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, bà Trần Thị T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Phan Quốc H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 430/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:430/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về