Bản án về tranh chấp ly hôn số 418/2023/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 418/2023/HNGĐ-ST NGÀY 28/12/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 28 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 744/2023/TLST- HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 422/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Võ Thị Pha N, sinh năm 1990; Cư trú: Tổ 2, ấp C, xã P, huyện G, tỉnh K . (Có mặt).

Bị đơn: Anh Nguyễn Tấn D, sinh năm 1987; Cư trú: Ấp K, xã K, huyện T, tỉnh C . (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 09/11/2023 và tại phiên toà, nguyên đơn chị Võ Thị Pha N trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Tấn D chung sống với nhau vào năm 2007; sau đó đăng ký kết hôn vào ngày 23/6/2011 tại UBND xã Phú Lợi, huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang. Do tính tình không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng đã sống ly thân gần 10 năm, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau và không có thiện chí hàn gắn mối quan hệ hôn nhân. Do không còn tình cảm với anh D nên chị Pha N yêu cầu được ly hôn với anh D.

- Về con chung: Vợ chồng có một người con chung tên Nguyễn Tấn Hiệp, sinh ngày 29/4/2008, hiện đang sống cùng chị Pha N. Khi ly hôn, chị Pha N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hiệp, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Tấn D: Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh D để tham dự phiên tòa nhưng anh D không có mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh D về các nội dung khởi kiện của chị Pha N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Tấn D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà không có mặt tại phiên tòa. Do đó căn cứ vào Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh D.

[2] Về hôn nhân: Chị Võ Thị Pha N và anh Nguyễn Tấn D xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa chị Pha N và anh D là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Chị Pha N xác định, do tính tình không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên vợ chồng đã sống ly thân, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau và không có thiện chí hàn gắn mối quan hệ hôn nhân. Do không còn tình cảm với anh D nên chị Pha N yêu cầu được ly hôn với anh D.

Về phía anh D, tuy đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham dự phiên tòa nhưng anh D không có mặt, điều này cho thấy anh D không có thiện chí hàn gắn và cũng không còn quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân với chị Pha N.

Do chị Pha N và anh D đã sống ly thân, không thực hiện được nghĩa vụ thương yêu, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ và sống chung với nhau nên xác định chị Pha N và anh D đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị Pha N, cho chị Pha N và anh D ly hôn là phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Vợ chồng có một người con chung tên Nguyễn Tấn Hiệp, sinh ngày 29/4/2008. Khi ly hôn, chị Pha N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hiệp.

Xét thấy, từ khi chị Pha N và anh D ly thân, cháu Hiệp do chị Pha N trực tiếp nuôi dưỡng; cháu Hiệp có nguyện vọng được sống với mẹ là chị Pha N; anh D nhận các văn bản tố tụng của Toà án nhưng không có ý kiến đối với yêu cầu về con chung của chị Pha N. Căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của cháu Hiệp, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Pha N, giao cháu Hiệp cho chị Pha N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Pha N không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con nên anh D không phải cấp dưỡng cho cháu Hiệp.

[4] Về tài sản chung: Chị Pha N xác định vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do không ghi nhận được ý kiến của anh D về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Nếu sau này đương sự có yêu cầu giải quyết thì sẽ yêu cầu giải quyết bằng vụ án khác.

[5] Về nợ chung: Chị Pha N xác định vợ chồng không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do không ghi nhận được ý kiến của anh D về nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Nếu sau này đương sự có yêu cầu giải quyết thì sẽ yêu cầu giải quyết bằng vụ án khác.

[6] Về án phí: Nguyên đơn chị Pha N phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 9, 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Võ Thị Pha N.

- Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Võ Thị Pha N và anh Nguyễn Tấn D.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Tấn Hiệp, sinh ngày 29/4/2008 cho chị Võ Thị Pha N trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Tấn D có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Hiệp mà không ai được cản trở; anh D có nghĩa vụ tôn trọng quyền của cháu Hiệp được sống chung với chị Pha N; anh D không phải cấp dưỡng cho cháu Hiệp.

- Về tài sản chung: Không xem xét, giải quyết.

- Về nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

2. Án phí: Chị Võ Thị Pha N phải chịu án phí số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Ngày 09/11/2023 chị Pha N đã dự nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004035 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, được đối trừ chuyển thu.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Võ Thị Pha N có quyền kháng cáo đối với bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị đơn anh Nguyễn Tấn D có quyền kháng cáo đối với bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 418/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:418/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:28/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về