TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 41/2024/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 29 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 614/2023/TLST–HNGĐ, ngày 29 tháng 11 năm 2023 về “tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2024/QĐXX- ST ngày 26 tháng 02 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Minh X, sinh năm 1983, địa chỉ: Số 54 đường số 2, phường H, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Phú T, sinh năm 1973, địa chỉ: Ấp L, xã T, huyện C, tỉnh Long An.
(Các đương sự vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị Minh X trình bày: Chị và anh Nguyễn Phú T tự nguyện kết hôn vào ngày 27/11/2006 tại Uỷ ban nhân dân phường Hòa, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 170, quyển số 01/2006. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được khoảng 10 năm, sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không đồng quan điểm sống, tính cách nên thường hay cãi nhau, bên cạnh đó anh T không có trách nhiệm trong việc chăm lo cho gia đình. Từ đó cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc và sống ly thân từ năm 2019. Nay chị thấy cuộc hôn nhân của chị không thể kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh T. Về con chung: chị và anh T có 02 con chung là Nguyễn Ngọc Xuân M, sinh ngày 06/12/2007 và Nguyễn Ngọc Như Q, sinh ngày 01/9/2009, hiện các con đang sống với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi các con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: không có nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Nguyễn Phú T đã được Tòa án cấp, tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo phiên hòa giải nhưng vắng mặt không có lý do và cũng không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Thẩm quyền của Tòa án và quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ vào nơi cư trú và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn, xét vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Long An và quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp ly hôn căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 các Điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Xét nguyên đơn chị Lê Thị Minh X có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và bị đơn anh Nguyễn Phú T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt nên căn cứ vào điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vụ án vắng mặt các đương sự.
[3] Quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Minh X và anh Nguyễn Phú T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2006 đúng với quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Chị X khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh T do trong quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn và không còn sống chung từ năm 2019. Tòa án thụ lý vụ án và cấp, tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo phiên hòa giải vụ án nhằm tạo điều kiện cho chị X và anh T tìm biện pháp để hàn gắn lại tình cảm vợ chồng nhưng anh T vắng mặt không có lý do và cũng không thể hiện ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của chị X. Còn chị X kiên quyết ly hôn với anh T. Từ đó, Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị X và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị X đối với anh T.
[4] Nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con: Chị X và anh T có 02 người con chung là Nguyễn Ngọc Xuân M, sinh ngày 06/12/2007 và Nguyễn Ngọc Như Q, sinh ngày 01/9/2009. Chị X yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con chung, anh T không có văn bản thể hiện ý kiến đối với yêu cầu nuôi các con chung của chị X. Xét thấy, các con chung hiện đang sống với chị X, được chị X chăm sóc và có cuộc sống ổn định, đồng thời các con chung có nguyện vọng muốn được sống với chị X. Do đó, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử giao cho chị X được quyền trực tiếp nuôi các con chung. Về cấp dưỡng nuôi con, do chị X tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[5] Tài sản chung, nợ chung: Chị X trình bày chị và anh T không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Còn anh T không có văn bản trình bày ý kiến về vấn đề này. Do đó, Hội đồng xét xử không xét.
[6] Án phí: Chị X phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 các Điều 35, 39; khoản 4 Điều 147; điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; các Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn chị Lê Thị Minh X đối với bị đơn anh Nguyễn Phú T.
Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lê Thị Minh X và anh Nguyễn Phú T.
Về nuôi con chung: Giao cho chị Lê Thị Minh X trực tiếp nuôi 02 con chung là Nguyễn Ngọc Xuân M, sinh ngày 06/12/2007 và Nguyễn Ngọc Như Q, sinh ngày 01/9/2009. Chị Lê Thị Minh X không yêu cầu anh Nguyễn Phú T cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, cha mẹ có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Về án phí: Chị Lê Thị Minh X phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị X đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0010777 ngày 24/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, chị X đã nộp đủ tiền án phí.
Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 41/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 41/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cần Đước - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về