Bản án về tranh chấp ly hôn số 35/2020/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG

 BẢN ÁN 35/2020/HNGĐ-ST NGÀY 23/06/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 23 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ số: 68/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm  2019,  về  “Tranh  chấp  ly  hôn”  theo  Quyết  định  đưa  vụ  án  ra  xét  xử  số: 51/2020/QĐXX-ST ngày 05 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà B, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện P, tỉnh Hậu Giang. (Có mặt).

2. Bị đơn: Ông J, sinh năm 1965.

Địa chỉ: N, CH, J, N, P, M, S Korea. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn bà B trình bày: Bà và ông J kết hôn vào ngày 31 tháng 8 năm 2012 tại Tổng Lãnh sự quán Hàn Quốc tại thành phố Hồ Chí Minh . Sau khi kết hôn, bà có sang Hàn Quốc sinh sống cùng với ông J, thời gian chung sống vợ chồng bất đồng ngôn ngữ, không phù hợp phong tục tập quán nên thường xuyên mâu thuẫn, đến ngày 03/4/2013 thì bà trở về Việt Nam cho đến nay. Từ đó đến nay  bà cũng không liên lạc được với ông J. Do hôn nhân không hạnh phúc, nay bà  B yêu cầu được ly hôn với ông J.

Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Bà B khai không có và không  yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn là ông J, từ khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành ủy thác tư pháp cho Tòa án Tối cao Hàn Quốc tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng kết quả ủy thác tư pháp không được do không đúng địa chỉ. Bà B không thể cung cấp đúng địa chỉ ông J cho Tòa án và có yêu cầu Tòa án thực hiện thủ tục thông báo nội dung khởi kiện trên cổng thông tin điện tử của Tòa án; Cổng thông tin điện tử của Đại sứ quán nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Đại hàn Dân quốc và trên kênh VOV5 Ban đối ngoại của Đài tiếng nói Việt Nam nhưng ông J vắng mặt và cũng không có gửi văn bản nêu ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của bà B đến Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang phát biểu, trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và đương sự đã chấp hành đúng các quy định pháp luật tố tụng dân sự; và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết cho bà B được ly hôn với ông J theo quy định pháp luật. Riêng về con chung, tài sản chung và nợ chung, do đương sự khai không có nên đề nghị không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét và kết quả hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà B, địa chỉ thường trú tại ấp B, xã T, huyện P, tỉnh Hậu Giang, có đơn khởi kiện xin ly hôn với ông J là người có quốc tịch Hàn Quốc và đang cư trú tại Hàn Quốc nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang.

[2] Bị đơn ông J, từ khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành ủy thác tư pháp cho Tòa án Tối cao Hàn Quốc tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng kết quả ủy thác tư pháp không được do không rõ người nhận. Bà B không thể cung cấp đúng địa chỉ ông J cho Tòa án và có yêu cầu Tòa án thực hiện thủ tục thông báo nội dung khởi kiện trên cổng thông tin điện tử của Tòa án; Cổng thông tin điện tử của Đại sứ quán nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Đại hàn Dân quốc và trên kênh VOV5 Ban đối ngoại của Đài tiếng nói Việt Nam nhưng ông J vắng mặt và cũng không có gửi văn bản nêu ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của bà J đến Tòa án. Do đó, căn  cứ vào điểm c khoản 6 Điều 477 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân  tỉnh Hậu Giang xét xử vắng mặt ông J.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà B và ông J kết hôn vào ngày 31 tháng 8 năm 2012 tại Tổng Lãnh sự quán Hàn Quốc tại thành phố Hồ Chí Minh nên quan hệ hôn nhân của ông, bà là hợp pháp và được pháp luật Việt Nam thừa nhận.

Sau khi kết hôn, bà B có sang Hàn Quốc sinh sống cùng với ông J, thời gian chung sống vợ chồng bất đồng ngôn ngữ, không phù hợp phong tục tập quán nên thường xuyên mâu thuẫn, đến ngày 03/4/2013 thì bà B trở về Việt Nam cho đến nay và hai bên không còn liên lạc với nhau. Từ đó cho thấy tình cảm vợ chồng giữa bà B và ông J không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên cho bà B được ly hôn với ông J là phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam.

[3.2] Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Bà B khai không có và  không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về án phí, lệ phí ủy thác tư pháp, chi phí dịch thuật và đăng tin: Bà B  phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 37, Điều 147, Điều 470, Điều 474, Điều  477, Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27, Điều 44 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Thông tư số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 19/10/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự.

Áp dụng: Điều 51, Điều 56 và Điều 122 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà B được ly hôn với ông J.

2. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà B phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), chuyển tiền tạm ứng án phí bà B đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0021133 ngày 20 tháng 6 năm 2019 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hậu Giang thành án phí.

3. Lệ phí ủy thác tư pháp: Bà B phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng), chuyển tiền tạm ứng lệ phí ủy thác tư pháp bà B đã nộp theo Biên lai  thu tiền số 0009049 ngày 01 tháng 7 năm 2019 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hậu Giang thành lệ phí ủy thác tư pháp.

4. Chi phí dịch thuật và đăng tin: Bà B phải chịu 2.783.500 đồng (đã nộp  xong).

5. Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 35/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:35/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về